MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa I (1925-1930)
Hội họa (8 người): Lê Văn Đệ, Nguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Lê Phổ, Công Văn Trung, George Khánh và Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) Lê Anh Phan.
Rời khoá học:
- Nguyễn Tường Tam, Lê Anh Phan.
Kiến trúc (2 người): Nguyễn Xuân Phương, Lê Quang Tình
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa II (1926-1931)
Hội họa: Tô Ngọc Vân, Hồ Văn Lái. Đặng Trần Cốc, Đỗ Đức Thuận, Thang Trần Phềnh, Nguyễn Hữu Dậu, Nguyễn Văn Hồng, Ham Let (Lào)
Điêu khắc: Vũ Cao Đàm, Lê Tiến Phúc, Hamlet (Lào)
Rời khoá học:
- Hamlet (Lào)
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa III (1927-1932)
Hội họa: Trần Quang Trân, Lê Thị Lựu, Phạm Hữu Khánh, Nguyễn Hoà Thế. Vũ Tiến Chức, Vũ Đăng Bổn, Phạm Ngọc Khảm, Phạm Trần Trung, Nguyễn Cao Luyện, Nguyễn Đình Thân, Tín (thiếu Họ và chữ lót)
06 Sinh viên đã tốt nghiệp:
Trần Quang Trân, Nguyễn Hoà Thế, Phạm Hữu Khánh, Vũ Tiến Chức, Vũ Đăng Bổn, Lê Thị Lựu.
Nguyễn Cao Luyện - học hết Năm thứ Nhất, chuyển chuyên ngành Kiến trúc.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa IV (1928-1933)
Hội họa: Trương Thé Hoàn, Trần Văn Dư, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Tường Lân,
Rời khoá năm 1930: Trương Thế Hoàn, Nguyễn Gia Trí, Đoàn Triều Quế.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa V (1929-1934)
Hội họa: Trần Bình Lộc, Phạm Hậu. Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Văn Long, Phạm Văn Thuận, Trương Đình Hiền, Nguyễn Văn Lăng,
Điêu khắc: Trần Ngọc Quyên.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa VI (1930-1935)
Hội họa: Nguyên Khang, Lê Văn Ngoan, Ngô Thúc Dũng, Nguyễn Bá Hải, Trần Văn Minh, Vũ Đình Ngọc, Nguyễn Anh, Thimonier (Pháp).
Điêu khắc: Đinh Khang, Trương Đình Ý
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa VII (1931-1936)
Hội họa: Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Lưu Văn Sìn, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Thuỳ Nhân, Vũ Đức Nhuận, Nguyễn Trung Bằng (chưa hoàn thành khoá học 05 năm)
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa VIII (1932-1937)
Hội họa: Lương Xuân Nhị, Đỗ Đình Hiệp, Nguyễn Văn Thâu, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Văn Khánh, Tôn Thất Đào, Lê Yên, Nguyễn Thị Nhung.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XI (1933-1938)
Hội họa: Nguyễn Đức Nùng, Trịnh Hữu Ngọc, Nguyễn Văn Riêm, Phạm Thúc Chương, Nguyễn Văn Bái, Nguyễn Dung, Hoàng Lập Ngôn, Lê Văn Huê, Nguyễn Như Hoang.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa X (1934-1939)
Hội họa: Hậu Hinh (Lào), Vương Hữu Dũng, Nguyễn Văn Quế, Ù Văn An (Quê Gò Đen, Long An), Nguyễn Văn Yên, Nguyễn Văn Mậu.
Điêu khắc: Phan Gia Giang
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XI (1936-1941)
Hội họa: Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Văn Tỵ, Bùi Trang Chước, Hoàng Tích Chù, Nguyễn An Trung, Trịnh Vân, Nguyễn Khắc Mẫn.
Điêu khắc: Trần Văn Lâm,
Nguyễn An Trung, Nguyễn Khắc Mẫn: chưa hoàn thành khóa học 05 năm.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XII (1938-1943
Hội họa: Nguyễn Văn Bình, Tô Văn San, Nguyễn Văn Tiếp, Phan Xuân Thi, Nguyễn Văn An, Hồ Văn Thu, Đặng Quốc Hùng, Lê Văn Trung.
03 Sinh viên đã hoàn thành tốt nghiệp 05 năm:
- Nguyễn Văn Bình, Tô Văn San, Nguyễn Văn An.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XIII (1939-1944)
Hội họa: Nguyễn Sỹ Ngọc, Huỳnh Văn Thuận, Trần Đình Thọ, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Văn Mười, Trần Tấn Thanh, Võ Doãn Giáp, Nguyễn Tấn Báu, Nguyễn Kỳ, Phạm Hậu.
Điêu khắc: Nguyễn Thị Kim
06 sinh viên trong tổng số 12 không hoàn thành khóa học 05 năm:
- Nguyễn Văn Mười, Trần Tấn Thanh, Võ Doãn Giáp, Nguyễn Tấn Báu, Nguyễn Kỳ, Phạm Hậu.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XIV (1940-1945)
Hội họa: Nguyễn Sáng, Nguyễn Văn Liên, Phan Tài, Nguyễn Văn Quang, Suzy Monsarrat.
Điêu khắc: Diệp Minh Châu
03 sinh viên không hoàn thành khoá học 05 năm:
- Phan Tài, Nguyễn Văn Quang, Suzy Monsarrat.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XV (1941-1954)
Ngày 9/3/1945 Cuộc đảo chính Nhật xảy ra, trường học đóng cửa
Hội họa: Huỳnh Văn Gấm, Bùi Xuân Phái, Tạ Thúc Bình, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Dư Hồng, Nguyễn Bá Thuyết.
04 sinh viên tốt nghiệp:
- Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Tư Nghiêm, Tạ Thúc Bình,
Bùi Xuân Phái.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XVI (1942-1945)
Ngày 9/3/1945 Cuộc đảo chính Nhật xảy ra, trường học đóng cửa
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XVII (1943-1945)
Ngày 9/3/1945 Cuộc đảo chính Nhật xảy ra, trường học đóng cửa
Hội họa: Mai Văn Hiến, Mai Văn Nam, Nguyễn Thọ, Đặng Thị Viêng Chân, Lê Thanh Đức, Thân Trọng Sự, Phạm Tăng, Đào Huy Ngọc, Yolande Saltet (Pháp), Marcel Courtial (Pháp), André Gironce (Pháp), Trương Trọng Minh.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XVIII (1944-1945
Khóa cuối cùng: Ngày 9/3/1945 Cuộc đảo chính Nhật xảy ra, trường học đóng cửa
Hội họa: Phan Kế An, Dương Bích Liên, Nguyễn Văn Thiện, Tôn Đức Lương, Kim Đồng, Phan Thị Thoa, Nguyễn Như Huân, Trần Quốc An, Hortense Vouillon (Pháp) Nguyễn Đình Dũng, Nguyễn Tiến Hoành.
Kết luận:
- 148 thí sinh trúng tuyển vào Trường Mỹ Thuật Đông Dương.
- Theo tài liệu chính thức ở Việt Nam, 128 sinh viên sẽ nhận đươc bằng tốt nghiệp, trong đó có 118 sinh viên chuyên ngành Hội họa và 10 sinh viên chuyên ngành điêu khắc. Chúng tôi cho rằng 97 sinh viên đã nhận được bằng tốt nghiệp cho cả hai chuyên ngành.
Nhà sưu tập tranh Đông Dương Jean-François Hubert
- Môn sinh của Jeans Pierre Laurens
- Giải thưởng Phòng Nghệ sĩ Pháp quốc Paris (Salon des Artistes Français)
- Học bổng nghiên cứu tại Rome và Athènes
- Giám đốc Mỹ thuật về Á châu trong kỳ triển lãm Quốc tế báo chí công giáo tại Vatican
năm 1936
- Điều khiển công cuộc tổ chức Mỹ thuật của Tòa Thánh Vatican trong kỳ triển lãm Quốc tế
Paris năm 1937
- Trưởng phái đoàn Nghệ sĩ Việt Nam kỳ Triển lãm Quốc tế Mỹ thuật công giáo Vatican
năm 1950 tại Roma trong dịp năm Thánh.
Có tác phẩm trưng bày :
- Tại Viện bảo tàng Luxembourg ở Paris : "Trong gia đình" (En famille), sơn dầu, năm 1933
Fonds Du fleuve Rouge au Mékong : Visions du Việt Nam
Copyright DR/CNAP/ photo Y. Chenot, Paris: p. 87
(tư liệu do Madame Loan de Fontbrune cung cấp)
Năm 1931, ông được một học bổng sang Pháp học tại Trường Mỹ thuật Paris, dưới sự hướng dẫn của giáo sư J.Pierre Laurence vẽ tranh sơn dầu. Trong những năm học tại Paris, nhiều tác phẩm của ông đã gây được sự chú ý trong giới nghệ thuật tại thủ đô ánh sáng này và ông đã đoạt giải thưởng hội họa do Hội Nghệ sĩ quốc gia Pháp tổ chức. Với thành tích rực rỡ này, ông được nhận tiếp một học bổng đi tu nghiệp thêm về hội họa tại Ý và Hy Lạp.
Năm 1933, tranh ông được chọn triển lãm tại phòng số 1 – một gian phòng dành cho những tài năng xuất sắc chọn từ 5.000 họa sĩ các nước. Có hơn 40 tờ báo Pháp lúc bấy giờ đã đề cập đến tác phẩm của ông (theo Đông Dương tuần báo). Trong cuộc triển lãm Nghệ sĩ quốc gia Pháp năm 1934, Bộ Văn hóa Pháp đã chọn mua ngay một bức tranh Trong gia đình của ông để treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg.
Năm 1936, tại một cuộc triển lãm tranh do tổ chức báo chí Công giáo bảo trợ tại Roma, có sự tham gia của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng của 30 quốc gia trên thế giới, trong số đó có nhà danh họa Bouleau (Pháp), tác phẩm của Lê Văn Đệ được tặng giải nhất. Do đó, ông được mời phụ trách một nhóm 11 kỹ sư và 20 họa sĩ làm nhiệm vụ vẽ, chạm trổ, trang hoàng trong điện Vatican. Công trình do ông chỉ đạo thực hiện đã được báo chí Ý và nhiều nước đánh giá cao.
Năm 1938, ông trở về nước, vừa sáng tác vừa tiếp tục nghiên cứu hội họa dân tộc và các nền hội họa phương Đông. Bức tranh Thiếu nữ ngủ ngày của ông là một tác phẩm nổi tiếng thời bấy giờ. Công lao lớn nhất của Lê Văn Đệ là đã sáng lập ra Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn, làm cho việc giảng dạy và đào tạo cán bộ mỹ thuật ở miền Nam được nâng cao và phong phú hơn. Năm 1954, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định thành lập, ông được cử làm Giám đốc đầu tiên của trường. Tác phẩm của ông thiên về khuynh hướng cổ điển và tân cổ điển, mặc dù ông nắm khá chắc kỹ thuật và có kiến thức uyên bác về khuynh hướng mỹ thuật hiện đại của châu Âu.
Ông say mê nghiên cứu thủ ấn họa của Nhật Bản và các trường phái hội họa nguyên thủy châu Âu, nhưng sở trường nhất của ông vẫn là tranh lụa, tranh sơn dầu và bích họa. Trong kỹ thuật tranh lụa, ông đã có những tìm tòi độc đáo như dùng màu sắc thiên nhiên thay thế cho màu hóa học, để làm tăng thêm chất hiện thực và vẻ mềm mại của loại tranh này.
Đánh giá về ông, giới họa sĩ cho rằng hai cố họa sĩ đàn anh xuất thân từ Trường Mỹ thuật Đông Dương đã đem lại vinh dự cho Việt Nam là hai ông Lê Văn Đệ và Nguyễn Gia Trí.
Nhiều tác phẩm của ông hiện được lưu giữ tại các bảo tàng một số nước châu Âu như: bức Trong gia đình (sơn dầu), 1934 – Viện Bảo tàng Luxemburg ở Paris, bức Đức Mẹ và bức Bà Thánh Madeleine dưới chân thập giá – Viện Bảo tàng Mỹ thuật giáo sĩ thừa sai Vatican, bức Mẹ và con – Viện Bảo tàng Mỹ thuật Aix La Chapelle…
Là một người bình dị, thích cái đẹp thôn dã, giàu lòng vị tha, ngoài chức vụ Giám đốc Trường Mỹ thuật, ông Đệ lúc sinh thời còn là Phó hội trưởng Hội hoa kiểng Việt Nam – một ngành có liên quan nhiều đến mỹ thuật như kiểng bonsai, hòn non bộ và vườn cảnh. Ông từ trần ngày 16-3-1966 tại Sài Gòn.
Tô Ngọc Vân (1906-1954), diplômé en 1931 de l’EBAI, dirigera l’école à partir de 1945. Pendant la guerre d’Indochine (1946-1954), l’école deviendra École des Beaux-Arts du Việt Bắc. La pénurie de matériel est constante dans cette école de la résistance. De petits dessins évoquent la vie des soldats. La peinture sur laque et l’estampe sont favorisées car les techniques sont traditionnelles et la matière première disponible. Tô Ngọc Vân sera tué en 1954 lors de la bataille de Điện Biên Phủ.
Trần Văn Cẩn (1910-1994), diplômé de l’EBAI en 1936, prendra la relève de Tô Ngọc Vân et dirigera l’École rétablie à Hanoï de 1954 à 1964. Tô Ngọc Vân et Trần Văn Cẩn embrassent la cause indépendantiste vietnamienne et accueillent la nouvelle idéologie du réalisme socialiste imposée par le Parti. Les thèmes doivent désormais montrer des figures héroïques choisies parmi les paysans, les soldats ou les ouvriers. La frêle jeune fille au regard perdu dans ses rêveries disparait.
Nguyễn Phan Chánh (1892-1984), diplômé de l’EBAI en 1930, s’inspire du monde rural et privilégie la peinture sur soie. Son œuvre se caractérise par une tonalité ocre et l’application de la couleur en larges aplats. Contrairement à Tô Ngọc Vân et Trần Văn Cẩn, il ne change pas de style avec l’avènement de la norme du réalisme socialiste. Dès l’époque indochinoise, ses scènes de genre s’attachent à dépeindre sobrement des gens simples. Cela lui permettra de traverser les années de troubles et de devenir l’un des peintres vietnamiens les plus prisés.
Diệp Minh Châu (1919-2002) montera du Sud vers le Nord en 1945 pour rejoindre la résistance anti-française. En 1950, il passe six mois auprès du président Hồ Chí Minh qu’il met en scène dans plusieurs huiles sur toile. Les portraits d’Hồ Chí Minh sont un sujet largement traité par les artistes du Việt Bắc.
Nguyễn Gia Trí (1908-1993), diplômé de l’EBAI, est considéré comme le maître de la peinture à la laque, un genre pictural nouveau, né dans les années 1930, synthèse de l’ornementation artisanale à la laque avec la peinture de chevalet à l’occidentale. Nguyễn Gia Trí quitte Hanoï en 1954, lors de la partition du Vietnam, pour se réfugier au Sud, en République du Vietnam.
Lê Văn Đệ (1906-1966) fuira également le régime communiste en 1954 et fondera l’École des Beaux-Arts de Saigon. Au sud, le style des artistes et leurs thèmes prolongent l’époque indochinoise : les scènes lumineuses dépeignent encore la légèreté et la joie de vivre.
Désenchantement : les quatre piliers «Nghiêm – Liên – Sáng – Phái».
Certains artistes ont été reconnus officiellement comme majeurs et se sont vus attribués le titre de «pilier», en référence aux «quatre piliers qui soutiennent la maison», une manière de désigner les quatre plus importants conseillers à la cour, traditionnellement. Nguyễn Tư Nghiêm (1922-2016), Dương Bích Liên (1924-1988), Nguyễn Sáng (1923-1988) et Bùi Xuân Phái (1920-1988) sont les quatre artistes de la seconde génération d’artistes vietnamiens qui incarnent le mieux le désenchantement qui gagnent certains artistes ayant rejeté l’idéologie du réalisme socialiste, après l’avoir embrassé dans leur jeunesse. On doit à Nguyễn Sáng de grands panneaux laqués où il exalte avec ferveur les soldats, les ouvriers et les paysans. Ces artistes patriotes souffrent pourtant de plus en plus du carcan imposé par le gouvernement. Leur créativité s’essouffle à respecter les nombreux interdits. Dans les années cinquante, un vent de contestation se lève parmi les intellectuels et les artistes. Mais il sera réprimé. Les artistes se retirent de l’appareil d’état et perdent tout statut. Ils vivent chichement, soutenus par leurs amis, peignant sur de mauvais cartons. Bùi Xuân Phái est connu pour ses figures d’acteurs et ses rues de Hanoï désertes, peintes avec une matière rugueuse formant des empâtements. Dương Bích Liên peint essentiellement des figures féminines, de même que Nguyễn Sáng, célèbre également pour ses chats vigoureusement brossés à l’aide d’un épais cerne noir. Ces trois amis mourront tous la même année. Nguyễn Tư Nghiêm, lui, tout en délaissant le réalisme socialiste, ne cède pas au désespoir. Il propose des thèmes inspirés des légendes populaires traitées dans un style cubiste fait de blocs structurés par les lignes internes.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA I (1925-1930)
Lê Phổ: Những đóa hoa hái từ một giấc chiêm bao
Ðinh Cường
Lê Phổ sinh ngày 2/8/1907 tại Hà Đông, cha ông là Lê Hoan, kinh sứ Bắc Kỳ thời vua Hàm Nghi trong thời gian ngắn 1884-1885. Mất ngày 12 tháng 12 năm 2001 tại Paris.
Lê Phổ may mắn hơn nhiều bạn cùng khoá, một năm sau khi ra trường đã được làm phụ tá cho Tardieu qua Pháp dự hội chợ đấu xảo thuộc địa và năm sau đó, 1932, được học bổng qua Pháp học tiếp tại trường Mỹ thuật Paris. Một tầm nhìn mới được mở ra cùng ông, bức sơn dầu rất “trường phái Paris” vẽ phong cảnh Fiesole năm 1932 và sau đó biến chuyển qua nhiều giai đoạn …Ông đã đi một vòng Châu Âu, tiếp xúc với hội họa Phục Hưng ở Ý, thấy được những nét trùng hợp giữa hội họa cổ điển Tây Phương và hội họa cổ Trung Quốc.
Ông thực sự ở hẳn Paris kể từ năm 1936. Mười năm sau, gặp và thành hôn với Paulette Vaux, ký giả báo Time và Life, có hai con trai: Lê Kim, nhiếp ảnh, và Lê Tân, họa sĩ chuyên về thiết kế, trang trí.
Virginia, 12.12.2009
- Tên khai sinh Mai Trung Thứ ( Mai Thứ )
- Ngày sinh 10 tháng 11, 1906 tại Hải Phòng
- Ngày mất 10 tháng 10, 1980 tại Paris
- Phong cách nghệ thuật Tranh sơn dầu, tranh lụa
- Tác phẩm chính Mona Lisa, Trẻ con chơi, Vật, Vẽ phụ nữ, Trẻ em, Cuộc sống
- Hoạt động khác Quay phim, chụp ảnh
Nguyễn Gia Trí (1908-1993) sinh tại tỉnh Hà Tây.Ông là sinh viên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1931-1936), ông được xem là người đi đầu trong việc chuyển những bức tranh sơn mài từ trang trí thành những tuyệt phẩm nghệ thuật và từ đó ông đã được mệnh danh là "Vua sơn mài". Sinh thời,Bùi Xuân Phái rất ngưỡng mộ tài năng và phẩm chất kiên dũng và xem ông như bậc đàn anh đáng kính nhất trong làng hội họa Việt Nam.
Ông Nguyễn Gia Trí là một trong những họa sĩ nổi tiếng đi đầu trong việc tạo ra một khuynh hướng nghệ thuật mới cho Việt Nam, với những đường nét vẽ thanh lịch và những tư tưởng mới về nghệ thuật sơn mài. Ông phối hợp lối in khắc với những phương thức sơn mài mới, đồng thời áp dụng các nguyên tắc cấu trúc tranh vẽ phương Tây, để tạo nên những bức họa hiện đại mang đầy tính dân tộc. Những tác phẩm của ông có thể tìm thấy trong Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Việt Nam tại Hà Nội và Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật tại Sài Gòn. Tác phẩm của Nguyễn Gia Trí đã được chỉ định là Bảo Vật Quốc Gia. Vì thế, những tác phẩm của ông đã không được phép rời khỏi Việt Nam.
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí thường làm tranh không hết hợp đồng, hầu hết là những đại gia có máu mặt đặt tranh, đó là những tỷ phú Nam Phi, Nam Mỹ. Họ đến xin ông vẽ những tranh khổ lớn và không yêu cầu về nội dung hay hình thức nghệ thuật, tùy ông muốn và không có chuyện tham gia góp ý kiến vào tác phẩm của ông. Tranh ông bán đo bằng ca-rê (phân vuông, tranh kích thước càng lớn thì giá tiền cứ theo đó mà nhân lên). Ở VN các họa sĩ trong lịch sử Hội họa hiện đại có duy nhất danh họa Nguyễn Gia Trí bán tranh tính bằng ca-rê và luôn phải từ chối đơn đặt hàng của khách.Trường hợp này đúng với nguyên tắc : phải có khách hàng lớn mới có nghệ sĩ lớn. Họa sĩ Nguyễn Gia Trí lúc sinh thời đã có nguyện vọng giữ lại ba bức tranh : "để cho thế hệ mai sau nghiên cứu". Đó là 03 bức tranh sơn mài khổ lớn lưu tại Thư viện Quốc Gia TP Hồ Chí Minh mà Phu nhân PTT.Ngô Đình Nhu mua định tặng Nhật Hoàng, nhưng ông yêu cầu phải để lại trong nước. Những năm đỉnh cao của năng lực sáng tạo, tài chính của ông lên tới hàng nghìn cây vàng. Nhưng đến khi nhắm mắt, xuôi tay, ngoài vài tấm tranh cỡ nhỏ, tài sản của ông chẳng có gì đáng kể, tất cả đã được họa sĩ dành cho nghệ thuật. Tất cả đã được người nghệ sĩ Để gió cuốn đi. (Tư liệu của Hs.Bùi Thanh Phương) |
Một Chân Dung Lớn Của Nền Mỹ Thuật Việt Nam Thế Kỷ XX: Nguyễn Gia Trí (1908 - 1993)HUỲNH HỮU ỦY
Trường Mỹ Thuật Đông Dương được thành lập năm 1924 ở Hà Nội, chỉ trong một thời gian ngắn chừng hơn mươi năm, đã đặt nền tảng cho một nền nghệ thuật mới hình thành và phát triển. Nếu Trường Mỹ Thuật Hà Nội không được thành lập thì có lẽ ngày nay Việt Nam vẫn chưa có một nền nghệ thuật hiện đại, và mỹ thuật Việt Nam vẫn bị chìm lấp, lẫn lộn với mỹ thuật Trung Hoa. Nguyễn Gia Trí vào học trường Mỹ Thuật Hà Nội khóa 5, nhưng bỏ học lở dở, sau đó dường như theo lời khuyến khích của họa sĩ Victor Tardieu, ông trở lại Trường, theo học khóa 7 cùng với các bạn đồng môn Lưu Văn Sìn, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Văn Tại, Vũ Đức Nhuận ... vào năm 1931. Chỉ vài năm sau đó, ông đã là một khuôn mặt nổi bật, đến độ trên đất Hà thành văn vật thời thập niên 40-50, đã có lời truyền tụng về tứ tượng trong nghề hội họa: nhất Trí, nhì Lâm, tam Vân, tứ Cẩn (Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, và Trần Văn Cẩn). (1)
Nguyễn Gia Trí với những phát hiện hoàn toàn mới mẻ về kỹ thuật sơn mài từ những năm đầu thập niên 30, lúc còn là sinh viên Trường Mỹ Thuật Đông Dương ở Hà Nội, vẫn tiếp tục những tìm kiếm và hoàn thiện thứ nghệ thuật đặc sắc này, đã tạo nên một tiếng nói có trọng lượng trong sinh hoạt nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại.
Thời kỳ tuổi trẻ đầy nồng nàn với đời sống, ông đam mê nghiên cứu và đưa kỹ thuật sơn mài đến cao điểm của nó, nghĩa là từ một thứ kỹ thuật thủ công đã hóa thân thành thế giới của cái đẹp với bao nhiêu điều kỳ diệu không tìm được ở nơi nào khác, ở chất liệu nào khác, óng ả, sâu thẳm, lộng lẫy mà rất trầm mặc. Trong cuộc triển lãm 1939 do Trường Mỹ Thuật Đông Dương tổ chức, các tác phẩm của Nguyễn Gia Trí gây được nhiều chú ý đặc biệt chưa từng thấy.
Qua cuộc bày tranh này, Tô Ngọc Vân đã có nhận xét:
"Cái lối sơn cổ của ta hào nhoáng, lòe loẹt, son giữa màu son, vàng chỉ có sắc vàng, trơ trẽn như anh nhà giàu phô của, vào Trường Mỹ Thuật đã dần dần biến thành mỹ công nhã nhặn mà vẫn rất quý giá. Vàng bạc, sơn son, sơn then, người ta chỉ dùng nguyên chất có chừng độ khi người ta xét thấy cần phải dùng đến cho toàn thể tấm sơn. Rồi cũng ngần ấy vật liệu đè lên nhau mài đi, mài lại, người ta chế ra được màu dìu dịu đỡ tầm thường. Đến cuộc thí nghiệm Nguyễn Gia Trí, lối sơn ta không còn là một mỹ nghệ nữa. Toát ra từ suy tư và tâm hồn người ấy, sơn mài đã được nâng lên thành loại mỹ thuật thượng đẳng. Người ta có thể tưởng tượng một "thầy sơn," chung quanh là mấy ông phó sơn giúp việc, chia nhau từng đoạn vẽ mà bôi sơn vào, bằng những màu đã tìm sẵn và đã ấn định cho chỗ nào rồi. Nghệ thuật Nguyễn Gia Trí không thế, nó là ý tưởng, cảm tính của Gia Trí đúc lại, một nét, một vết, một màu đều phải ở tay nghệ sĩ mà ra ... Trên những màu hồng nhợt biến hóa, những sắc nâu ngon thật là ngon, những vỏ trứng như đổi tất cả thể chất để thành quý vật, vài nét bạc, vài nét vàng sáng rọi, vung lên, rít lên như tiếng kêu sung sướng của xác thịt khi vào cực lạc.
Chàng nghệ sĩ ấy yêu tấm sơn, như ta có thể yêu một người đàn bà. Lúc âu yếm bằng những nét vuốt ve mềm mại, lúc dữ dội bằng năm bảy nét mạnh đập tung, cào cấu. Vạn vật đối với nghệ sĩ chỉ đáng yêu, có sắc và hình. Những màu hoen hoen đứng cạnh nhau, cân đối dung hòa một cách tuyệt khéo, đem lại cho người biết hưởng cảm giác bồn chồn rạo rực.
Mỗi tác phẩm Gia Trí mang tâm trạng của người tạo ra nó, nó cũng dồi dào linh động, phức tạp vì biến theo tâm trạng. Không một khuôn khổ, không một nếp nào có thể ngưng nó lại." (2)
Vài năm sau, trên tạp chí Thanh Nghị, Tô Ngọc Vân kết luận thêm về Nguyễn Gia Trí: "Màu sắc ấy như ẩn hiện một chút gì huyền ảo đắm say nồng nàn, còn run rẩy trong bóng tối hòa với máu, một sức sống còn bế tắc, một linh hồn cương quyết đam mê, đang quằn quại vì muốn thoát nhanh ra ánh sáng." (3)
Trước những tấm tranh sau thời kỳ 1940 được gợi hứng từ không khí ưu phiền, mệt mỏi, trác táng, pha lẫn đôi chút phiêu bạt và say đắm của các cô gái giang hồ, Tô Ngọc Vân đã cảm thấy như thế và phần nào ông cũng là một tâm hồn đồng điệu của Nguyễn Gia Trí, chia sẻ được với thế giới của đường nét bay bướm, trữ tình, không chịu gò bó chật chội nên có lúc đã đi đến chỗ phá phách của một thứ cung cách cầu kỳ (maniériste), và màu sắc thì rất táo bạo trên đường đi tìm sự độc đáo hoàn toàn riêng cho mình.
Những năm ở Sài Gòn thực sự không có gì thay đổi lắm so với những bức tranh đầu tiên như Bên Hồ Gươm vẽ năm 1935, Chùa Thầy, Đền Trung Tự (1938), Chợ Bờ, Về Chợ, Khỏa Thân, Thiếu Nữ Và Hoa Phù Dung, Thiếu Nữ Bên Hồ Sen, Vườn Xuân,đến những bức mới trong thời kỳ này như Hoài Niệm Xứ Bắc, Chúa Giáng Sinh, Phục Thù, Sen Tàu, Địa Linh Hoán Tượng, Ba Vua.
Tuy nhiên, dễ nhận ngay là vào thời kỳ sau cùng này, ông đã đạt đến một sự điêu luyện toàn bích về kỹ thuật, hơi mất đi phần nào chút vụng dại duyên dáng trước đây, điển hình là hai bức khổ lớn 1.2m x 2.4m hiện vẫn còn bày tại Thư Viện Thành Phố Hồ Chí Minh. Hay nơi bức Ba Vua trong một kỳ triển lãm ở Đại Chủng Viện Cường Để năm 1971, có người tỉ mỉ đã đếm ra được 22 màu sắc trên tấm tranh này, không tản mạn, không rời rạc, mà hợp nhau lại rất nhất quán trong một cảnh cổ kính mà vẫn mới mẻ.
Thỉnh thoảng ông cũng đưa một chút tượng trưng và biểu tượng, đôi lúc lại thử bút cả trừu tượng vào sơn mài. Nguyễn Gia Trí vốn có tiếng tài hoa nơi những ký họa, phác thảo nên khi đưa những phác thảo tài tình này vào tranh sơn mài, với những ưu thế của chất liệu này, đã chinh phục được mọi người khắp nơi, bằng một hòa cảm sâu lắng bởi hình, sắc và chất vô cùng kỳ lạ. Một thế giới bí ẩn, dào dạt cảm xúc và đam mê nhưng được chế ngự tài tình dưới sự điều hòa của tri thức và trí tuệ.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại, có một dấu mốc đặc biệt là cuộc triển lãm Salon Unique 1943 mà tác phẩm của Nguyễn Gia Trí cũng là một đóng góp độc sáng ở cuộc trưng bày này. Có lẽ nhân đây, với những hồi tưởng đặc biệt về Nguyễn Gia Trí, chúng ta cũng nên nhớ lại đôi chút về Salon Unique 1943.
Năm 1945, Trường Mỹ Thuật Đông Dương phải đóng cửa, nhưng trước đó gần hai năm, cuộc triển lãm "Salon Unique 1943" được thực hiện, để lại một dấu vết lớn trong quá trình phát triển và hình thành nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại.
Với sự khởi xướng và bảo trợ đặc biệt của đô đốc Jean Decoux, Toàn quyền Đông Dương, triển lãm Salon Unique 1943 do chính phủ xứ Đông Dương tổ chức, mở cửa ở Hà Nội từ ngày 10 đến 20 tháng 12-1943, đã tập hợp được những khuôn mặt đặc biệt và nổi bật lúc bấy giờ, với một số giáo sư Trường Mỹ Thuật Hà Nội, các họa sĩ đã rời trường từ nhiều năm về trước, và cả những sinh viên đang còn học ở trong trường.
Nhớ lại về cuộc triển lãm này, chúng ta sẽ bắt gặp tranh sơn dầu của Inguimberty, Văn Giáo, Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái; sơn mài Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Sĩ Ngọc, Mạnh Quỳnh, Nguyễn Khang; tranh lụa Lê Văn Đệ, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Tiến Chung. Hoàng Tích Chù bày cả tranh sơn mài và sơn dầu. Người xem tranh còn được thưởng thức những dessins khá đẹp, là loại tranh mới vẽ bằng bút chì của Nam Sơn, một trong hai bức loại này của Nam Sơn là chân dung một nhà sư đang ngồi xếp bằng, không phải đang thiền định, nhưng cũng ở trong một dáng ngồi rất thanh tĩnh, trầm tư.
Về điêu khắc, có tượng bán thân của Nguyễn Văn Thế, phù điêu đắp nổi của Diệp Minh Châu và Nguyễn Thị Kim; tượng thân người (torse) và chân dung bán thân (buste) của Évariste Jonchère, nhà điêu khắc từng đạt giải Khôi nguyên La Mã (Grand prix de Rome), bấy giờ là giám đốc Trường Mỹ Thuật Hà Nội, thay thế Victor Tardieu đã qua đời từ năm 1937. Nhắc đến Inguimberty, Jonchère, chúng ta cũng nên nhớ đến Georges Barrière, mặc dù không có tiếng tăm gì lắm vào thời ấy, nhưng cũng đã từng được giải thưởng Đông Dương (Prix de L'Indochine) từ năm 1934, rồi qua sống ở Đông Dương, đã đi qua nhiều nơi khắp Việt, Miên, Lào, sang cả Siam (tức Thái Lan sau này), từ trung du, thượng du Cao-Bắc-Lạng, đến Đồ Sơn, Angkor ... để ghi chép và vẽ. Georges Barrière cũng có bày một số tác phẩm của ông trong cuộc triển lãm này.
Nhìn chung, nói đến "Salon Unique 1943," chúng ta tức thời nhớ ngay đến với nhiều bồi hồi về những tác phẩm đẹp của Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ, Tô Ngọc Vân, và Trần Văn Cẩn. Rất hiển nhiên, những tác phẩm ấy đã tạo ra được một thế giới nghệ thuật Việt Nam, những phong cách Việt Nam, không còn lẫn lộn vào đâu được nữa, không thể lẫn với Tây, và tất nhiên càng không thể lẫn với Tàu hay Nhật. Những thiếu nữ mềm mại, duyên dáng, trong những chuyển động vô cùng thanh tú trên bộ bình phong sơn mài Nguyễn Gia Trí, đã tạo nên được một sự quyến rũ chưa từng có trước đó. Những dáng người mềm mại, uyển chuyển ấy là của riêng Nguyễn Gia Trí, của riêng mỹ thuật Việt Nam, không còn chút nào dấy vết Victor Tardieu, Joseph Inguimberty, hay những bậc thầy của hội họa phương Tây. (4)
Con đường đến với nghệ thuật của Nguyễn Gia Trí đã được chỉ ra dưới một ngôi sao của định mệnh, bởi vì từ hồi nhỏ, sống giữa một gia đình làm nghề thêu phẩm phục triều đình, như ông đã từng giải thích với Thái Tuấn, rồi do nhìn quen những màu sắc, hình vẽ rồng mây, những đưòng thêu chỉ vàng, chỉ bạc rực rỡ, có lẽ tất cả những điều đó đã ảnh hưởng đến sở thích của ông (5). Tính cách thủ công với nghệ thuật thêu trướng liễn, phẩm phục, với những hình vẽ trang trí đã để lại nhiều vết tích trên các tác phẩm sau này. Ví dụ trên bức Hoài Niệm Xứ Bắc thực hiện năm 1969, ông đã từng làm một đường viền trang trí chung quanh, với các họa tiết gợi ý từ những mô típ trang trí cũ, hoặc từ những truyền thuyết dân gian như mai-lan-trúc-cúc, long-lân-quy-phượng, cầm-điểu, chuông-khánh, bánh chưng-bánh dầy, cầm-kỳ-thi-họa ... Rồi cũng trong đường viền ấy, còn cả thơ Tản Đà trích lại từ bài Thề Non Nước được viết theo dạng chữ Nôm. Cũng như trên bức Vườn Xuân Trung Nam Bắc (2m x 5,5m) hiện đang bày tại Bảo Tàng Mỹ Thuật TP Hồ Chí Minh, bức tranh được đóng lại trong một đường viền trang trí tương tự, và dọc theo hai đường viền bên trái và phải là hai câu thơ chữ Hán của Đào Duy Từ mà Bùi Quang Ngọc đã tạm dịch thành chữ quốc ngữ: "Bóng trăng như đèn tỏa sáng trên mặt nước, Hương hoa thoang thoảng bay theo gió đưa."
Suốt một đời hoạt động nghệ thuật hơn nửa thế kỷ, Nguyễn Gia Trí đã để lại một sự nghiệp to lớn. Ông là một nghệ sĩ có thực tài, lại giữ được phẩm chất đạo đức của một nghệ sĩ lớn, trước bao nhiêu biến đổi thăng trầm của vận nước trong mấy chục năm qua. Là bạn thân của Nhất Linh, hoạt động với nhóm Tự Lực Văn Đoàn, với các báo Phong Hóa, Ngày Nay, ông liên hệ nhiều với nhóm cách mệnh Việt Quốc, rồi thời thế thay đổi nhiều, mặc dù vẫn làm việc kiên trì, ông có một đời sống gần như ẩn cư ngay giữa cảnh đô hội; và đến sau năm 1975, cảnh thay đổi ở Miền Nam thực quá phũ phàng, ông dường như không còn muốn sáng tác nữa. Vườn Xuân Trung Nam Bắc là một bức tranh dở dang, do một nhà doanh nghiệp đặt ông làm từ trước thời điểm 1975. Về sau, người đặt tranh đang ở Pháp đã tặng lại quyền sở hữu cho ông, và ông đã hoàn tất bức tranh cũng chỉ mới trong vài năm cuối đời khi ông còn đủ sức khỏe.
Nguyễn Gia Trí thực sự đã tạo được danh tiếng bởi những tác phẩm sơn mài tuyệt diệu của mình, mặc dù chất liệu này xem ra rất nghèo nàn, đặt ra quá nhiều hạn chế cho công việc sáng tác nghệ thuật, gần gũi với công việc của một người thợ thủ công hơn là một nhà nghệ sĩ. Vượt qua những giới hạn đó, Nguyễn Gia Trí đã hết sức tài tình để dựng nên một thế giới hội họa đầy tính sáng tạo, hết sức sống động, ảo hoặc, rất thơ mộng và có hồn. Và để hiểu được nghệ thuật của ông thì nên nhập vào ý tưởng này của ông: khi người ta kết luận về ông, cho là ông đã chế ngự được sơn mài, làm chủ được một chất liệu rất ương ngạnh thì chính ông đã cười và trả lời: "Mình có làm chủ đâu; phải hiểu biết tính chất của nó, như tính tình của một người bạn, đôi lúc cũng phải theo khả năng của nó chứ." (6)
Nguyễn Gia Trí đã lập lại nhiều lần ý tưởng đó với những người học trò của ông hay với bất kỳ ai muốn đến gần ông để hiểu biết phần nào về nghệ thuật sơn mài của ông. Như có lần ông đã chỉ ra cho một nhà nghiên cứu ở miền Bắc vào, tìm đến ông với một lòng tôn kính hết sức đặc biệt. "Lúc đầu vẽ sơn mài như sơn dầu tôi thấy bất tiện vì nó loáng. Cho nên, nếu vẽ sơn mài như sơn dầu thì phải tìm cách thoát ly, bỏ cách bắt chước sự thật. Sơn mài là sơn mài. Đời sống của sơn mài không dính dáng đến đời sống của con người." (7)
"Nghề sơn, theo tôi nghĩ, người ngoại quốc không làm được, vì họ sợ lở sơn mà không có tính kiên nhẫn như ta. Nhưng ta làm được, vì chính những lý do ấy mà nó mang dân tộc tính. Sơn mài Nhật Bản ngày nay, họ làm bằng máy tinh vi. Trái lại sơn mài của ta làm bằng tiểu thủ công, rất chậm và đắt, do đó, không cạnh tranh được với họ. Vì vậy, muốn vượt lên họ, nghề của mình không đẩy lên thành mỹ thuật thì nghề sẽ chết. Tôi nghe một số anh em ở ngoài Hà Nội vào nói, các họa sĩ ngoài Bắc hiện chỉ mua được sơn non, sơn xấu để làm - còn sơn tốt thì xuất khẩu - tôi rất buồn. Nếu thế, sơn mài sẽ chết, không cạnh tranh được với ngoại quốc, trước hết là với Nhật Bản và Trung Hoa. Nên nhớ rằng trình độ nghệ thuật của họ cũng rất cao, ta phải dè chừng ..." (8).
Nguyễn Gia Trí nói đến tính tỉ mỉ, công phu của sơn mài một cách thẳng thắn, ông không ngại gì khi nói đến chất thủ công của nó. Hơn mười năm trước, Việt Báo Kinh Tế(Westminster, California) loan tin về cái chết của nhà danh họa còn có in một trang hồi ký của Nhã Ca "Họp mặt với danh họa Nguyễn Gia Trí," hồi ký này giúp chúng ta hiểu thêm một điều rất quan trọng về Nguyễn Gia Trí, ấy là vì có một thời hoạt động cách mạng với Việt Nam Quốc Dân Đảng, chung quanh nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Gia Trí cũng từng bị Pháp bắt và chỉ định cư trú một nơi trong nhiều năm, và nhờ những năm bị an trí này, ông đã dồn hết thì giờ và sức lực cho sơn mài, tìm ra được những cái tỉ mỉ, khó chịu, công phu và đòi hỏi riêng của nó. "Có lần tôi đã bảo Đằng Giao rằng sơn mài là thứ nghệ thuật chỉ những anh từng bị cầm tù mới có thể thành công được. Sự thực là vậy. Đây là thứ nghề rờ mó tỉ mỉ, tối công phu. Nếu không bị Tây cầm chân một nơi, chắc tôi đã không kiên nhẫn ngồi một chỗ để mà làm việc này." (9)
Tôi không biết ghi chép của Nhã Ca về lời lẽ và ý kiến của Nguyễn Gia Trí có chính xác hay không. Có thể, đấy chỉ là một sự nhấn mạnh của Nguyễn Gia Trí về công phu mà kỹ thuật thực hiện sơn mài của ông đòi hỏi.
Tuy nhiên, nó không phải chỉ là kết quả của thời kỳ rị mọ tìm kiếm khi Nguyễn Gia Trí bị bọn cầm quyền Pháp cầm chân một chỗ, an trí ông ở một vùng thượng du Bắc Việt rồi về sau ở Thủ Dầu Một, Nam phần. Bởi vì tất cả những điều khám phá đó đều đã được Nguyễn Gia Trí tìm thấy từ thời còn học ở Trường Mỹ Thuật Hà Nội, rồi dần dà được bồi đắp thêm từng ngày, và đã được hoàn tất từ trước thời điểm 1944. Trong cuộc triển lãm năm 1944 ở Phòng Thông Tin Hà Nội, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung ghi nhận về sơn mài của Nguyễn Gia Trí từ 1939 đến 1944, mà ông cho là một kết quả hết sức đáng ngạc nhiên, và tranh sơn mài đã bắt đầu cất cánh. Nguyễn Đỗ Cung phải gọi đó là nghệ thuật của một con người kỳ dị và thông thái. Chẳng qua cũng chỉ là do sự hấp dẫn quá lạ thường từ khám phá về kỹ thuật đưa lại mà thôi. Chúng ta hãy đọc lại vài dòng ghi nhận của Nguyễn Đỗ Cung trên báo Thanh Nghị, số 79, ngày 19-8-1944.
" ... Đen, đỏ, vàng. Với những màu hơn kém nhau chút ít của nghề sơn, họa sĩ đã cho ta một cuộc sống mà sự giàu sang tương tự như cuộc sống thực của ta.
Sự tạo tác bao giờ cũng đẹp.
Còn gì khô sượng bằng vỏ trứng gà giữa mấy màu đen đỏ. Vỏ trứng đó đã thành ánh sáng nhễ nhại và huyền diệu trên thân thể của một thiếu nữ mặc áo đỏ trên một bức sơn. Giữa một cảnh lộng lẫy, thiếu nữ đó đã tưng bừng đi ra cũng mặc áo xám xanh
Áo xám xanh này chỉ có sơn đen và vỏ trứng gà.
(...) Những hình thù thốt ra đanh thép như vẫn sống như vậy từ bao giờ, giản dị và bền bỉ như những vật thiên nhiên. Kết quả của suy nghĩ và kinh nghiệm.
Người ta đã quên chất sơn, quên đầu đề, quên hết để mà tưởng được sống giàu sang cảnh họa sĩ Nguyễn Gia Trí.
Nhưng có thể nào đầu mối sự huyền diệu đó không khởi sự trong lòng họa sĩ?
(...) Nên tôi phải cám ơn anh. Anh gợi lên cho tôi phong phú và rõ rệt. Anh đã nói thực, vì đã nghe mãnh liệt. Bằng tin tưởng sung sướng, tôi bay theo, tuy, cũng đã như họa sĩ, anh dùng rất nhiều cung bậc, tuy người bay trước tôi thật kỳ dị và thông thái.
Nhưng dù thông thái thế nào, anh cũng đã cố gắng, nên tôi mới không thể nào cưỡng nổi mà không tin anh. Sung sướng, tôi thấy cả tôi." (10)
Nguyễn Gia Trí sinh năm 1908 ở Thường Tín, Hà Đông, Bắc Việt, qua đời ở Sài Gòn vào hồi 10 giờ 30 đêm 20 tháng 6 năm 1993 tại nhà riêng số 493 Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận, hưởng thọ 85 tuổi.
Nguyễn Gia Trí không còn nữa, nhưng ông đã để lại một sự nghiệp lớn cho dân tộc, cuộc đời và hậu thế.
Những tác phẩm của ông dù lớn dù nhỏ đều là những dấu vết đáng ghi nhớ của một nghệ sĩ lớn, mà không những thế, chung quanh đời ông còn tỏa ra một ánh sáng kỳ ảo bởi một nhân cách đặc biệt với nhiều giai thoại đẹp đẽ.
Một kẻ hậu sinh cũng đầy tài năng là Trịnh Cung, khi nhắc đến Nguyễn Gia Trí đã nói với giọng ngưỡng mộ: "Khoảng 30 năm, kể từ khi tôi vào đời đến nay chưa hề được thấy ông làm triển lãm ở các phòng triển lãm của thành phố, thế mà khi nhắc đến ông một cảm giác tôn kính ông như đã có từ bao giờ trong da thịt tôi. Cảm giác có được phải chăng đã do những tác phẩm sơn mài tuyệt vời của ông lôi cuốn tôi mỗi lần tôi được dịp gặp gỡ. Những tác phẩm như vậy hiện nay còn rất ít trong thành phố chúng ta. Ở một số nhà thờ, một vài cơ quan và một ít nhà sưu tập cá nhân có tranh của ông và đã trở thành báu vật của họ.
Nguyễn Gia Trí là một họa sĩ tiền phong của nền hội họa Việt Nam, nhất là đối với bộ môn tranh sơn mài. Tính cách của một nhà tiền phong lớn đã xuất hiện rất sớm. Ông chính là người đầu tiên đã làm mới tranh sơn mài. Cũng chỉ sử dụng vàng, đỏ, đen, vỏ trứng và sơn phủ như bất cứ một họa sĩ tranh sơn mài nào khác, thế mà ông đã dựng nên một thế giới hội họa rất sống động, kết quả của sự phối thành từ hai trường phái phục hưng và hiện đại. Sự thành đạt này cũng có thể được coi như tương đương với kỳ công của Andres Ségovia - nhà thiên tài âm nhạc người Tây Ban Nha - đã đưa cây đàn guitare dân gian lên địa vị một nhạc cụ hàn lâm.
Trường hợp của họa sĩ Nguyễn Gia Trí thường làm tôi liên tưởng đến những họa sĩ của các triều đại xa xưa của Trung Hoa. Họ sống và vẽ như một kẻ chân tu, từ chối mọi sự tán tụng, ban thưởng, địa vị, thế mà đã để lại cho đất nước những báu vật dù cho tên tuổi của họ có khi người đời sau không tìm ra dấu vết." (11)
Trong giới làm nghệ thuật tạo hình Việt Nam xưa nay, có lẽ chưa có ai có một đời sống tuy nhẹ nhàng nhưng ương ngạnh, cổ quái và kiên quyết như Nguyễn Gia Trí. Trước đây, có lời đồn đại ông đã đuổi ra khỏi nhà một người đại diện của chính phủ Ngô Đình Diệm khi vị này đã trả giá một bức tranh của ông, bức tranh mà chính phủ dự định mua để tặng cho nhà UNESCO ở Paris. Cũng có lời đồn ông đã từ chối bán tranh cho Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Và điều này ở Sài Gòn sau năm 1975, ai cũng biết rõ: ông đã dứt khoát đóng cửa, lạnh nhạt không tiếp những nhân vật lãnh đạo văn hóa nghệ thuật từ Hà Nội vào, ghé đến thăm viếng.
Xem mấy tấm hình Trần Dạ Từ chụp ông vào những ngày cuối đời ông, không hiểu tại sao tôi lại liên tưởng đến Houkusai, có lẽ vì tác phẩm lớn và cuộc đời đặc biệt của ông, vì sự nghiệp ông để lại cho nền văn hóa dân tộc cũng lớn như Houkusai đối với nền văn hóa Nhật Bản. Và có lẽ vì một liên tưởng nhỏ khác nữa, những chân dung này hơi giống với bức chân dung tự họa rất danh tiếng của Houkusai. Chính với chân dung tôi nhìn thấy đó, Thanh Tâm Tuyền cũng nhìn thấy gần như vậy, mà có cường điệu đôi chút, có lẽ như vậy mới hợp với cách nhìn của nhà thơ đã phát động và dựng nên trào lưu thơ tự do mạnh mẽ, ào ạt của thời nào.
Quanh co đường hẻm hẻm
giữa sáng Chủ Nhật
đến gặp bất ngờ một Thiền Sư
Ngồi im lắng nghe và ngắm
Sét đánh bao giờ
hằn dấu sẹo trắng nửa sọ trái
Chiếc đầu nghiêng cúi
Đôi tay dài vểnh đón nghe
lời trên môi buột thốt
Đôi mày tối rậm
lấp lánh ánh trắng những ngày tới
Và những ngón tay tự run rẩy
Buông tiếng cười ròn tan
như nắng đùa trên dàn hoa giấy
lẫn trong xe cộ trẩy hội ồn phố xa (12)
Thanh Tâm Tuyền thấy Nguyễn Gia Trí là một thiền sư với nửa sọ trái bị sét đánh tự bao giờ mà hằn lại vết sẹo trắng. Có lẽ, Thanh Tâm Tuyền, qua kinh nghiệm riêng của mình, hoặc giả là vì vừa trở về sau những ngày dài trong trại cải tạo, đã thấy Nguyễn Gia Trí qua một mối ám ảnh quá mãnh liệt nào đó. Thực sự, Nguyễn Gia Trí không chịu đựng tiếng sét và giông bão nghệ thuật từ trời đất hay thời đại dữ dội như vậy, như một Gauguin hay Van Gogh hay Nguyễn Sáng, mà là như một bậc đại sư về nghệ thuật gốm của Nhật Bản, hay như Bernard Leach, một người tìm về và học hỏi về gốm trong truyền thống đó. Nghệ thuật của Nguyễn Gia Trí là một mày mò tiệm tiến rất hài hòa và thanh nhã, rất đài các và sang trọng, chính trong cung cách đó mà Nguyễn Gia Trí đã xây dựng được nhiều tác phẩm quý giá, tuyệt đẹp.
Để bổ túc thêm cho những ghi chép khá sống động bên trên của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền về một chân dung bên ngoài của Nguyễn Gia Trí, chúng ta hãy lắng nghe thêm đôi lời của ông Trí nói về mỹ thuật mà họa sĩ Nguyễn Vìệt đã ghi lại được từ các buổi nhàn đàm năm 79 và 80. Lời nói và ý tứ nhẹ nhàng này cũng giúp cho người thưởng ngoạn nghệ thuật hiểu được ông hơn và cảm được nghệ thuật của ông dễ dàng hơn, bởi vì phần nào đó cũng là chiều sâu của tâm hồn và hội họa Nguyễn Gia Trí.
"- Công của nghệ sĩ là rửa mắt cho công chúng. Cho công chúng nhìn sáng hơn, rõ hơn, và mới hơn. Một quan niệm, một đầu óc quá cổ điển không có lợi cho sáng tác.
Nghệ sĩ dùng qui luật nhỏ của riêng mình để mò mẫm tìm qui luật lớn.
Với chất liệu sơn mài hoặc chất liệu khác cũng vậy, không được bắt nó phải theo mình. Mà phải tôn trọng chất liệu. Hiểu nó và nương theo nó mà điều khiển.
Trên một tấm vóc, một tấm toan, hoặc một tờ giấy, nghệ sĩ được tự do tuyệt đối. Không có quy tắc luật lệ nào cả. Mất tự do vì nghệ sĩ tự mình trói mình bằng những thành kiến quy tắc nào đấy.
Hội họa là nghệ thuật tạo hình. Cái gốc của nó là tạo hình. Hình rất đa dạng, một chấm cũng là hình. Một nét, một phẩy cũng là hình. Màu sắc và hình không nhất thiết phải gần với nhau.
- Vì tôi làm việc bị lầm lỗi nhiều nên mới tiến bộ. Còn vẽ khéo quá thì chậm phát triển. Hội họa gần với tôn giáo vì nó xuất phát từ tâm người ta. Nó không phải làm bằng óc hay bằng tay.
- Làm nghệ thuật điều chính yếu là thành thật. Cái hại nhất là giả với chính mình. Làm hàng trăm cái hỏng để lấy nửa cái được hoặc một cái được. Người nghệ sĩ không bao giờ thỏa mãn với chính mình.
Chất liệu chiếm một nửa người nghệ sĩ. Phải yêu chất liệu, yêu như vợ mình thì mới có con là tác phẩm. Mỗi chất liệu có đặc điểm riêng. Phải nắm được tính chất riêng của nó mà phát triển. Ví dụ độ dày mỏng trong sơn dầu. Sơn mài thì lại yêu cầu phẳng. Độ bóng, phẳng, hoặc bất kỳ cách nào miễn là đạt hiệu quả nghệ thuật. Khi có điều gì chưa đạt, người vẽ áy náy và tìm cách khắc phục cho đến khi tạm thỏa mãn, hoặc thỏa mãn với bức tranh ấy. Với nghệ sĩ, tác phẩm đi qua và năng lực sáng tạo còn lại.
Vì họa sĩ muốn biết và thấy cái tâm mình, nên mới tìm tòi và làm việc. Vì không biết nên mới vẽ. Đối với hội họa trừu tượng cũng không nên phân biệt với các môn phái khác. Nó cũng chỉ là phương tiện để họa sĩ tìm cái thật. Trừu tượng khó là vì họa sĩ không có chỗ dựa vào mẫu thực. Từng chấm từng nét trong tranh trừu tượng cũng có hình riêng và là một với toàn thể tranh. Chi tiết cũng như những giọt sương, nhưng mỗi giọt sương cũng đều soi ánh mặt trời. Mọi chi tiết trong tranh cũng đều chịu chung một sự kiểm soát ngang nhau." (13)
Nghệ thuật của Nguyễn Gia Trí là một thành quả của công phu, kỷ luật, khám phá cái đẹp trong một trạng thái thanh tĩnh, nhẹ nhàng, và an hòa của tâm hồn. Nhưng để dựng nên được thế giới của cái đẹp, Nguyễn Gia Trí cũng có một cách nhìn khá cởi mở và tự do, không tự ràng buộc mình vào trong định kiến và quy tắc nhỏ nhặt, chật chội nào.
Cho đến đầu thế kỷ XX, nghệ thuật tạo hình Việt Nam thường chỉ là vô danh, chưa có tác giả nào để lại tên tuổi một cách đặc biệt. May thay, đến thời đại chúng ta, đã có một danh họa Nguyễn Gia Trí, đánh một dấu mốc vào sự nghiệp văn hóa nghệ thuật của đất nước. Chúng ta nghiêng mình tưởng nhớ và biết ơn ông.
Huỳnh Hữu ỦyThành phố Vườn, Giáp Tết Ất Dậu, 2005(Thế Kỷ 21, số 189&190, tháng 1&2, 2005)
CHÚ THÍCH:
(1) Theo Đỗ Lai Thúy, Chân Trời Có Người Bay, Nxb Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội 2002, trang 39.
(2) Tô Tử (tức Tô Ngọc Vân), "Nguyễn Gia Trí và sơn ta", Ngày Nay, số 146, ngày 21.1.1939.
(3) Tô Ngọc Vân, "Những bức vẽ bằng sơn ta của Nguyễn Gia Trí", Thanh Nghị, số 77, năm 1944.
(4) Để ghi lại đôi nét về Salon Unique 1943, chúng tôi đã dựa vào bài viết của CL.M., Le "Salon Unique 1943", Indochine Hebdomadaire, Hà Nội, 4e Anné, No 171, 9 Décembre, 1943.
(5) Thái Tuấn, "Họa sĩ Nguyễn Gia Trí", Thế Kỷ 21, số tháng 3, 1991.
(6) Trích dẫn theo Thái Tuấn, Thế Kỷ 21, đã dẫn ở trên.
(7) (8) Mỹ Thuật, Hà Nội, số 1.1989, bài viết của nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân.
(9) Nhã Ca, "Họp mặt với danh họa Nguyễn Gia Trí", Việt Báo Kinh Tế, California, số 97, tháng 7.1993.
(10) Nguyễn Đỗ Cung, "Nguyễn Gia Trí (giai đoạn 1939-1944)", Thanh Nghị, số 79, ngày 19-8-1944. In lại trong Kỷ Yếu Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật, Hà Nội, số 7-1991, trang 60-61.
(11) Trịnh Cung, "Sự im lặng của một bậc thầy", bài in trên Lao Động Chủ Nhật ở Sài Gòn, in lại trên tạp chí Đất Mới, Québec, Canada, số tháng 2-1991.
(12) Thanh Tâm Tuyền, "Chân dung họa sĩ Nguyễn Gia Trí ngày về thăm", Thơ Ở Đâu Xa, Trầm Phục Khắc xb, cơ sở Văn phát hành, California, 1990, trang 73-74.
(13) Nguyễn Việt ghi lại lời họa sĩ Nguyễn Gia Trí trong các buổi nhàn đàm ngày 19 tháng 9 năm 1979, 1-8-1980 và 19-11-1980.
CF. Nguyễn Việt, "Tưởng Niệm Họa Sĩ Nguyễn Gia Trí", Mỹ Thuật, T.ph Hồ Chí Minh, số 10-11, 1993.
|
- Thiếu nữ bên hoa sen (1951)
- Thiếu nữ bên hoa huệ (1943)
- Hai thiếu nữ và em bé (1944)
- Thiếu phụ ngồi bên tranh tam đa (1942)
- Buổi trưa (1936)
- Bên hoa (1942)
HỌA SĨ NGUYỄN TƯỜNG LÂN (1906-1946)
“ | ...Bức họa Hiện vẻ hoa cô con gái ngồi yên lặng dưới rèm cửa vừa cuốn của Nguyễn Tường Lân làm ta nghĩ đến những mỹ nhân, nét bút linh diệu, nhẹ nhàng của họa sĩ Tàu và Nhật Bản. Trên đường Bắc Kạn cũng là một bức họa đẹp, nét vẽ giản dị, màu không nhiều. Ông Lân năm nay đã tỏ ra là một họa sĩ có bản năng, các hình màu đã rõ rệt, không còn mịt mù như trước nữa. | ” |
“ | ...Nhà họa sĩ Nguyễn Tường Lân, trong bức vẽ lớn Thiên nhiên, một cô gái khỏa thân - cho chúng ta thưởng thức cái tài của nghệ sĩ trong tả những hình thể đều đặn. | ” |
“ | ...Nguyễn Tường Lân vẫn dí dỏm gẩy lên những nét vui tươi xinh xắn trên những đường toàn thể rất sơ sài. | ” |
HỌA SĨ NGUYỄN CÁT TƯỜNG (1912-1946)
(Mother and Child by Cat Tuong 1940 Courtesy of Sotherby)
HỌA SĨ PHẠM HẬU (1903-1995)
HỌA SĨ TRẦN VĂN CẨN (1910-1994)
Họa sĩ Bùi Xuân Phái sinh ngày 1/9/1920 tại Hà Nội, làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hà Tây, tỉnh Hà Đông, một làng nổi tiếng với tranh khắc gỗ dân gian Kim Hoàng.
Ông xuất thân trong một gia đình tiểu tư sản trung lưu nhà ở phố Hàng Thiếc, sau chuyển về 87 Hàng Bút nay gọi là phố Thuốc Bắc. Chính vì vậy mà ông đã thuộc lòng từng con đường, ngõ ngách của 36 phố phường Hà Nội.
Thủa nhỏ, ông học Trường Trí Tri ở phố Hàng Quạt, có năng khiếu về môn văn, và rất thích vẽ. ở tuổi học sinh ông đã được báo “Cậu ấm Cô chiêu” đặt vẽ tranh vui thường kỳ…
Bùi Xuân Phái qua đời năm 1988 bởi căn bệnh ung thư phổi. Sinh thời, ông được xem là người mang đậm phong cách của người Hà Nội. Các bức chân dung Bùi Xuân Phái còn lại hiện nay cho ta thấy, đó là một người đàn ông có gương mặt gầy gầy, có phần khắc khổ nhưng vẫn toát lên nét quý phái.
MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA 1938-1942
HỌA SĨ TẠ TỴ (1921-2003)
MỸ THUẬT YẾT KIÊU HÀ NỘI
HỌA SĨ BÙI QUANG NGỌC (1934 - 2024)
Họa sĩ Bùi Quang Ngọc sinh năm 1934 tại Quảng Trạch, Quảng Bình. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, yêu nước. Tuổi thơ của ông gắn liền với với một làng quê miền cát trắng, mặn mà gió biển, thơ mộng giàu truyền thống khoa bảng, làng Cảnh Dương quê hương ông.
BÙI QUANG NGỌC - Khiêu vũ. Sơn dầu
Bùi Quang Ngọc - Đi và đến
BÙI QUANG NGỌC - Khỏa thân. Sơn dầu
Bùi Quang Ngọc - Bà lão nón quay thao
BÙI QUANG NGỌC - Bến thuyền. Sơn dầu
Bùi Quang Ngọc - chào mừng đại đồng dân tộc Sán Chỉ
Bùi Quang Ngọc - chân dung 2
Bùi Quang Ngọc - chân dung
Bùi Quang Ngọc - chợ
Bùi Quang Ngọc - khỏa thân 06-1994
Bùi Quang Ngọc - khỏa thân 1994
Bùi Quang Ngọc - Sài Sơn 03-1957
Bùi Quang Ngọc - thôn Cói Đồng Mô Lạng Sơn 04-04-1955
Bùi Quang Ngọc - tông xanh
Bùi Quang Ngọc - Văn Cao 1992
Bùi Quang Ngọc -
Bùi Quang Ngọc-self portrait
Bùi Quang Ngọc-Trịnh Công Sơn
Hai Mươi Năm Hội Họa Miền Nam
HUỲNH HỮU ỦY
Hai mươi năm Hội Họa Miền Nam (1954-1975) từ NHÓM SÁNG TẠO đến HỘI HỌA SĨ TRẺ VIỆT NAM, đã tạo nên vẻ mặt hiện đại cho nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Giai đoạn ấy rất quan trọng trong lịch sử Mỹ Thuật chung cho toàn bộ đất nước.
Vựng tập triển lãm của Hội Họa Sĩ Trẻ,
năm 1969
Họa sĩ Duy Thanh, Sàigòn, 1961
Ngọc Dũng và Thái Tuấn, Virginia, 1996
Họa sĩ Tạ Tỵ, Phan Diên vẽ, 1998
Họa sĩ Nguyên Khai
Họa sĩ Nguyễn Đồng và Nguyễn Thị Hợp, Paris, 1982
Họa sĩ Nguyễn Quỳnh, 2006
Họa sĩ Trịnh Cung trên đường phố New York, 1997
Họa sĩ Đinh Cường
Họa sĩ Rừng, Sàigòn, 1991
Họa sĩ Hồ Thành Đức
Họa sĩ Nguyễn Phước
Họa sĩ Cù Nguyễn, Sàigòn, 1972
Họa sĩ Đỗ Quang Em và Nhà phê bình hội họa Huỳnh Hữu Ủy, California, 8-2003. Nguồn: Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại (Huỳnh Hữu Ủy, VAALA, 2008)
Họa sĩ Nguyễn Lâm
Họa sĩ Hồ Hữu Thủ
Họa sĩ Nguyễn Trung
Huỳnh Hữu Ủy
(Khởi Hành số 81, Tháng 7.2003))
LAO ĐỘNG VIỆT NAM (sơn mài) (1958-1959) Kích thước 8.40 x 2.40 m (07 phên)
Vietnamese workers (lacquer) 1958-1959 yrs. Creative
Travailleurs Vietnamiens (laque) Créate année 1958-1959
BỐ CỤC(sơn mài)
Composition (lacquer)
Composition (lacque)
ĐỖ HOÀNG HOANH
SÁNG TÁC TẬP THỂ CỦA GIÁO SƯ VÀ SINH VIÊN TRƯỜNG QUỐC GIA CAO ĐẲNG MỸ THUẬT GIA ĐỊNH
Joint work of the master and student of the Giadinh National Fine Art College
Oeuvre commune des professeurs et des élèves de l' École Nationale Supérieur des Beaux - Arts de Giadinh
(Tư liệu NGHỆ THUẬT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI - NHA MỸ-THUẬT HỌC-VỤ BỘ QUỐC-GIA GIÁO DỤC VIỆT-NAM CỘNG-HÒA) Chỉ đạo và thực hiện Họa sĩ Nguyễn Văn Trung - Hiện Sưu tập tại Malaysia
Tranh dự Triển lãm ở Thụy sĩ 1962-1963, mang sang do các vị Họa sĩ : Lê Văn Đệ, Mai Lan Phương và Nguyễn Văn Phương
Xử lý ảnh do Nguyễn Quốc Tuấn - October 06-2015
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét