Paul Klee (1879 - 1940)
- Tranh không đáp sự có thể, nhưng nó làm cho điều gì đó có thể
Pablo Picasso (1881 - 1973)
Tất cả mọi thứ có thể được tưởng tượng là có thật
Tout ce qui peut être imaginé est réel
Hội họa là nghề nghiệp của kẻ mù. Anh ta vẽ không phải điều anh ta nhìn thấy mà là điều anh ta cảm thấy, điều anh ta tự nói với mình về thứ mình đã nhìn thấy.
Painting is a blind man’s profession. He paints not what he sees, but what he feels, what he tells himself about what he has seen.
Salvador Dali (1904 - 1989)
1. “Have no fear of perfection - you'll never reach it.”
Tạm dịch: Đừng sợ sự hoàn hảo - bạn sẽ không bao giờ đạt được nó.
2. “Intelligence without ambition is a bird without wings.”
Tạm dịch: Thông minh mà không có tham vọng là con chim không có cánh.
3. “There is only one difference between a madman and me. The madman thinks he is sane. I know I am mad.”
Tạm dịch: Chỉ có một sự khác biệt giữa tôi và một người điên. Người điên cho rằng mình khỏe mạnh. Tôi biết tôi đang điên.
4. “Surrealism is destructive, but it destroys only what it considers to be shackles limiting our vision.”
Tạm dịch: Chủ nghĩa siêu thực có sức hủy diệt, nhưng nó chỉ phá hủy những gì nó coi là gông cùm hạn chế tầm nhìn của chúng ta.
5. “Drawing is the honesty of the art. There is no possibility of cheating. It is either good or bad.”
Tạm dịch: Vẽ là tính trung thực của nghệ thuật. Không có khả năng gian lận. Nó vừa là tốt vừa là xấu.
6. “The difference between false memories and true ones is the same as for jewels: it is always the false ones that look the most real, the most brilliant.”
Tạm dịch: Sự khác biệt giữa ký ức giả và ký ức thật cũng giống như đồ trang sức: nó luôn là những ký ức giả trông thật nhất, rực rỡ nhất.
7. “There are some days when I think I'm going to die from an overdose of satisfaction.”
Tạm dịch: Có những ngày tôi nghĩ rằng mình sẽ chết vì thỏa mãn quá liều.
8. “The secret of my influence has always been that it remained secret.”
Tạm dịch: Bí mật về ảnh hưởng của tôi luôn là bí mật.
9. “The first man to compare the cheeks of a young woman to a rose was Obviously a poet; the first to repeat it was possibly an idiot.”
Tạm dịch: Người đàn ông đầu tiên so sánh đôi má của một thiếu nữ với một bông hồng rõ ràng là một nhà thơ; người đầu tiên lặp lại nó có thể là một tên ngốc.
10. “Each morning when I awake, I experience again a supreme pleasure - that of being Salvador Dali.”
Tạm dịch: Mỗi sáng thức dậy, tôi lại trải nghiệm một niềm vui tột độ - đó là trở thành Salvador Dali.
11. “Those who do not want to imitate anything, produce nothing.”
Tạm dịch: Những người không muốn bắt chước bất cứ điều gì, sản xuất không có gì.
12. “The only difference between me and a madman is that I'm not mad.”
Tạm dịch: Sự khác biệt duy nhất giữa tôi và một người điên là tôi không điên.
13. “Mistakes are almost always of a sacred nature. Never try to correct them. On the contrary: rationalize them, understand them thoroughly. After that, it will be possible for you to sublimate them.”
Tạm dịch: Sai lầm hầu như luôn luôn có tính chất thiêng liêng. Đừng bao giờ cố gắng sửa chúng. Ngược lại: hãy hợp lý hóa chúng, tìm hiểu chúng một cách thấu đáo. Sau đó, bạn sẽ có thể thăng hoa chúng.
14. “Let my enemies devour each other.”
Tạm dịch: Hãy để kẻ thù của tôi ăn thịt lẫn nhau.
15. “The thermometer of success is merely the jealousy of the malcontents.”
Tạm dịch: Nhiệt kế của sự thành công chỉ đơn thuần là sự ghen tị của những kẻ bất lương.
Hồ Hữu Thủ (1940)
“Cái thức trong sáng tạo không có nghĩa là cái chúng ta đã biết, mà là cái chúng ta lấy trong tâm thức của chính mình….”
“ Ý tưởng là rác. Sáng tạo phải như đóa hoa đang nở! “
Khuyết Danh
“Nghề thuật không phải là sự bắt chước, mà là ảo giác”



AMEDEO MODIGLIANI 1884 - 1920 (Expressionist)
EGON SCHIELE 1890 - 1918 (Skinnist)
JEAN-MICHEL BASQUIAT 1960 - 1988 (Streetist)
PAUL GAUGUIN 1848 -1903 (Impressionist, Post-Impressionist)
VAN GOGH 1853 - 1890 (Post-Impressionist)
PAUL KLEE 1879 - 1940 (Abstractist, Graphicist)
FRANCIS BACON 1561 - 1626 (Serious, Monstrous, Distorted)
EDGAR DEGAS 1834 - 1917 (Impressionist)
HOKUSAI 1760 - 1849 (Graphicist)
WASSILY KANDINSKY 1866 - 1944 (Abstractist)
GINO SEVERINI (1883-1966) FUTURIST MOVEMENT
(7 tháng 4 năm 1883 – 26 tháng 2 năm 1966) là một họa sĩ người Ý và là thành viên hàng đầu của phong trào Vị lai . Trong phần lớn cuộc đời, ông chia thời gian của mình giữa Paris và Rome. Ông gắn liền với chủ nghĩa tân cổ điển và " trở lại trật tự " trong thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Mai Duy Minh - Cố Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, Sơn dầu, Kích thước 89 x 89 cm. Hoàn thành 04 năm 2017 x 2021
Mai Duy Minh (1976) - Chiến thắng Điệ Biên Phủ, Sơn dầu, Kích thước 190 x 490 cm Kết quả làm việc 10 năm không mệt mỏi của Hoạ sĩ
Tranh của Hoạ sĩ Mai Duy Minh
Nguồn: nld.com.vn
- Đức quốc xã tràn vào Paris.
- Phát-xít Nhật tiến vào Đông Dương.
- Phan Bội Châu đang ốm nặng và chuẩn bị mất ở Huế. - Nguyễn Văn Vĩnh vừa qua đời được 4 năm, để lại sự nghiệp trước tác đồ sộ bậc nhất.
- Phan Thanh và Tản Đà sắp qua "giỗ đầu".
- Vũ Trọng Phụng sắp qua đợt cúng "trăm ngày".
- Hoàng Trọng Phu 68 tuổi, vừa thôi chức Tổng đốc Hà Đông mà ông nắm giữ suốt 30 năm để vào Đà Lạt phát triển ấp Hà Đông tại đây, chuyên trồng rau và hoa cung cấp cho thị trường Sài Gòn.
- Bùi Quang Chiêu 67 tuổi, vừa rời chức Viện trưởng Hội đồng quản hạt Nam Kỳ tại Sài Gòn, đồng thời vẫn là đại biểu Nam Kỳ tại Thượng Hội đồng Pháp quốc hải ngoại.
- Lê Văn Miến 66 tuổi, đang về hưu tại Huế và tiếp tục phát triển kỹ thuật vẽ sơn dầu châu Âu mà ông là người đầu tiên du nhập vào Việt Nam.
- Hồ Tá Bang 65 tuổi, đang đảm nhiệm Nghị trưởng (Chủ tịch Hội đồng Quản trị) của Liên Thành thương quán, đồng thời phụ trách Dục Thanh học hiệu.
- Huỳnh Thúc Kháng 64 tuổi, đang điều hành tờ báo "Tiếng dân" mà ông thành lập tại Huế từ năm 1927.
- Ưng Bình Thúc Giạ Thị [Nguyễn Phúc Ưng Bình - cháu nội Tuy Lý vương Miên Trinh] 63 tuổi, đang làm Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ Trung Kỳ, vừa được bầu làm Viện trưởng Viện dân biểu Trung kỳ.
- Đạm Phương nữ sử (cháu nội vua Minh Mạng) 59 tuổi, đang lãnh đạo Hội nữ công ở Huế.
- Kỳ Ngoại hầu Cường Để 58 tuổi, vừa thôi giữ Hội chủ Việt Nam Quang Phục Hội để nhường cho "thế hệ thứ hai" của Hội này như cựu Thượng thư Bộ Lại Ngô Đình Diệm, bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, bác sĩ Lê Toàn, Vũ Đình Di, kỹ sư Vũ Văn An...
- Hồ Học Lãm 56 tuổi, đang ốm nặng và nằm viện tại Quế Lâm (Trung Quốc).
- Ngô Đình Khôi 55 tuổi, đang giữ chức Tổng đốc Nam Ngãi dưới triều vua Bảo Đại trước khi bị ép về hưu từ vào năm 1943 vì ý hướng thân Nhật.
- Trần Trọng Kim 53 tuổi, đang tích tham gia các hoạt động xã hội của Hội Khai trí Tiến Đức, Hội Bắc kỳ Phật giáo...
- Phan Khôi 53 tuổi, vừa vào Sài Gòn dạy học chữ Nho và viết tiểu thuyết sau khi đóng cửa tờ "Sông Hương" tại Huế một năm trước đó.
- Bùi Kỷ 52 tuổi, đang dạy học tại Trường tư thục Thăng Long do một số trí thức tiến bộ và có xu hướng thân cộng sản như Phan Thanh, Hoàng Minh Giám, Đặng Thái Mai, Võ Nguyên Giáp... thành lập.
- Tôn Đức Thắng 52 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Côn Đảo với án khổ sai chung thân.
- Nguyễn Văn Thinh 52 tuổi, đang điều hành Hội Truyền bá quốc ngữ tại Nam Kỳ trước khi đứng ra huy động nhân sĩ lập Hội đồng tư vấn Nam Kỳ để thành lập chính phủ Nam Kỳ tự trị.
- Bùi Bằng Đoàn 51 tuổi, đang giữ chức Thượng thư Bộ Hình dưới triều vua Bảo Đại, trông nom việc xử kiện tại tất cả các tỉnh Trung Kỳ, chỉ đạo việc soạn thảo các luật cho Trung Kỳ.
- Nguyễn Văn Tố 51 tuổi, đang nghiên cứu cổ văn Việt Nam tại trường Viễn Đông Bác Cổ (Hà Nội).
- Nguyễn Ái Quốc 50 tuổi, đang bị mất liên lạc với Đảng Cộng sản Đông Dương sau một thời gian hoạt động trong vai Thiếu tá Bát lộ quân với bí danh Hồ Quang tại Diên An - căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc, sau đó trở về Côn Minh rồi vượt biên giới về Cao Bằng để lãnh đạo cách mạng Việt Nam vào đầu năm 1941.
- Nam Sơn 50 tuổi, đang giảng dạy với tư cách giáo sư chuyên ngành bậc 2, phụ trách môn Đồ họa và Trang trí tại Đại học Mĩ thuật Đông Dương - ngôi trường mà ông và họa sĩ Victor Tardieu là đồng sáng lập vào năm 1925.
- Phạm Quỳnh 48 tuổi, đang giữ ghế "Thượng thư Bộ học" dưới triều Bảo Đại ở Huế.
- Phan Kế Toại 48 tuổi, đang giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh trước khi được bổ nhiệm làm Tổng đốc Thái Bình.
- Nguyễn Phan Chánh 48 tuổi, đang sáng tác tranh lụa tại quê nhà Hà Tĩnh và bắt đầu giới thiệu các tác phẩm tranh lụa của mình tới giới thưởng ngoại hội họa tại Pháp và châu Âu.
- Nguyễn Văn Tâm 47 tuổi, đang làm Quận trưởng quận Cai Lậy, chuẩn bị đàn áp đẫm máu Khởi nghĩa Nam Kỳ (1941).
- Hồ Tùng Mậu 44 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Buôn Ma Thuột.
- Khái Hưng 44 tuổi, vừa mới bị thực dân Pháp bắt đi đày ở Sơn La, "cùng đợt" với Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí...
- Vũ Đình Long 44 tuổi, đang phụ trách NXB Tân dân và tờ "Tiểu thuyết thứ Bảy".
- Thích Quảng Đức 43 tuổi, đang hành đạo tại miền Nam Việt Nam, khai sơn và trùng tu nhiều ngôi chùa.
- Lê Hữu Từ 43 tuổi, đang phụng vụ tại Giáo xứ Phát Diệm (Ninh Bình).
- Ngô Đình Thục 43 tuổi, vừa được tấn phong Linh mục, đang là Giám quản đầu tiên của Giáo phận Tông Tòa Vĩnh Long.
- Vũ Hồng Khanh 42 tuổi, đang làm Ủy viên Hải ngoại bộ của Việt Nam Quốc dân Đảng Hải ngoại Biện sự xứ (Bureau d’Outre – Mer du Việt Nam Quốc dân Đảng) tại Trung Quốc.
- Trần Văn Chương 42 tuổi, đang mở Văn phòng luật sư tại nhà riêng ở Hà Nội.
- Nguyễn Thế Truyền 42 tuổi, đang sống với người vợ Pháp tại Nam Định.
- Nguyễn An Ninh 40 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Côn Đảo.
- Cao Xuân Huy 40 tuổi, đang dạy học tại một số trường tư thục ở Huế và tham gia viết báo Revue pédagogique.
- Tú Mỡ 40 tuổi, đang tích cực tham gia nhóm Tự lực văn đoàn.
- Đào Trinh Nhất 40 tuổi, vừa từ Sài Gòn ra Hà Nội và cộng tác tích cực với báo "Trung Bắc chủ nhật".
- Hoàng Đạo Thúy 40 tuổi, đang là Ủy viên phụ trách ngành Tráng sinh và là Thủ lĩnh của phong trào hướng đạo Bắc Kỳ.
- Ngô Đình Diệm 39 tuổi, đang dạy học tại trường Thiên Hựu (Providence) ở Huế, do anh ông là Ngô Đình Thục làm Giám học, trước khi tham gia thành lập và lãnh đạo tổ chức Đại Việt Phục hưng Hội, dựa vào Nhật để chống Pháp.
- Phạm Khắc Hòe 39 tuổi, vừa từ Quy Nhơn lên làm Quản đạo Đà Lạt, phát triển nghề trồng rau tại đây.
- Trần Huy Liệu 39 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Sơn La.
- Trịnh Đình Thảo 39 tuổi, đang là luật sư tại Tòa Thượng thẩm Sài Gòn.
- Phùng Chí Kiên 39 tuổi, đang hoạt động với Nguyễn Ái Quốc ở Côn Minh (Trung Quốc)
- Phan Văn Hùm 38 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Côn Đảo.
- Đặng Thai Mai 38 tuổi, đang ngồi dịch "Lôi vũ", "Nhật xuất" của Tào Ngu.
- Hải Triều 38 tuổi, vừa bị thực dân Pháp bắt đi an trí tại Phong Điền (Thừa Thiên).
- Lê Hồng Phong 38 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Côn Đảo.
- Phan Đăng Lưu 38 tuổi, vừa bị thực dân Pháp bắt một ngày trước khi xảy ra Khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940).
- Trần Văn Hương 38 tuổi, đang dạy học tại trường Collège Le Myre De Villers tại Mỹ Tho.
- Vũ Ngọc Phan 38 tuổi, đang dạy học tư tại Hà Nội và cộng tác với các báo Pháp-Việt, Văn học, Nhật Tân, Phổ thông bán nguyệt san, Trung Bắc tân văn, Sông Hương....
- Vương Hồng Sển 38 tuổi, đang làm thư ký tại dinh Thống đốc Nam Kỳ.
- Nguyễn Triệu Luật 37 tuổi, đang bị thực dân Pháp cho đi an trí sau một thời gian dạy học tại Vinh.
- Đào Duy Anh 36 tuổi, đang nghiên cứu độc lập về lịch sử, văn hóa, văn học Việt Nam.
- Hoàng Minh Giám 36 tuổi, đang dạy học và viết báo chống chế độ thực dân Pháp tại Sài Gòn.
- Nhượng Tống 36 tuổi, đang bị quản thúc ở quê nhà Nam Định sau 7 năm lưu đày ở Côn Đảo.
- Trần Đình Long 36 tuổi, đang bị thực dân Pháp đưa đi đày tại Sơn La cùng Trần Huy Liệu, Tô Hiệu, Nguyễn Lương Bằng...
- Nguyễn Văn Huyên 35 tuổi, đang là Ủy viên thường trực Trường Viễn Đông bác cổ tại Hà Nội.
- Hoàng Văn Hoan 35 tuổi, đang điều hành Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) ở Trung Quốc.
- Phan Khắc Sửu 35 tuổi, đang tham gia và hoạt động tích cực trong tổ chức Việt Nam Nhân dân Cách mệnh Đảng, một tổ chức chính trị hoạt động đòi độc lập cho Việt Nam trước khi bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Côn Đảo.
- Nguyễn Khánh Toàn 35 tuổi, Phó Ban Đông Dương của Quốc tế Cộng sản, đang hoạt động với nhóm Cộng sản Việt Nam ở Diên An, tham gia giảng dạy Khoa Lịch sử cách mạng thế giới và Khoa tiếng Nga với bí danh Hoàng Chính Quang.
- Hoàng Quốc Việt 35 tuổi, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, đang hoạt động tại vùng Bắc Ninh-Bắc Giang do bị chính quyền thuộc địa trất xuất khỏi Hà Nội.
- Bùi Công Trừng 35 tuổi, đang cùng Hải Triều phụ trách tờ báo Dân, cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Trung Kỳ thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Tạ Thu Thâu 34 tuổi, đang bị thực dân Pháp bỏ tù vì tố cáo gian lận trong cuộc bầu cử Hội đồng Quản hạt (Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ).
- Nguyễn Bình 34 tuổi, ly khai với Quốc Dân đảng, đang hoạt động cách mạng và xây dựng căn cứ riêng tại Hải Phòng và vùng lân cận.
- Hà Huy Tập 34 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt về Sài Gòn xử án.
- Nguyễn Tường Tam 34 tuổi, đang là Tổng Thư ký Đại Việt Dân chính Đảng.
- Phạm Văn Đồng 34 tuổi, đang bí mật sang Trung Quốc cùng với Võ Nguyên Giáp, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và được Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ về nước xây dựng căn cứ địa ở biên giới Việt-Trung.
- Hà Huy Tập 34 tuổi, vừa bị thực dân Pháp bắt và xử án 5 năm tù giam tại Sài Gòn.
- Tô Ngọc Vân 34 tuổi, đang bắt đầu giảng dạy tại Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương.
- Mai Trung Thứ 34 tuổi, đã định cư và đang phát triển sự nghiệp hội họa tại Paris.
- Lê Duẩn 33 tuổi, Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Côn Đảo, một thời gian ngắn sau khi được bầu vào Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Trường Chinh 33 tuổi, vừa được bầu vào Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long) 33 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Sơn La.
- Lê Phổ 33 tuổi, vừa sang Pháp định cư và phát triển sự nghiệp hội họa.
- Thế Lữ 33 tuổi, đang nỗ lực hiện đại hóa nghệ thuật kịch nói sau gần một thập niên đóng góp to lớn cho phong trào Thơ Mới.
- Nguyễn Sơn 32 tuổi, vừa được tướng Chu Đức điều động về làm Phó Chủ nhiệm Khoa giáo dục chính trị tại Phân hiệu 2 Đại học kháng Nhật ở Hàn Tín Đài, Linh Thọ, Hà Bắc, Trung Quốc.
- Nguyễn Văn Tạo 32 tuổi, đang bị thực dân Pháp đưa đi đày tại Côn Đảo vì tố cao gian lận trong bầu cử Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ.
- Hồ Tá Khanh 32 tuổi, đang hoạt động chính trị, xã hội tại Sài Gòn trong nhóm các ông Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Văn Tạo, Hồ Văn Nhựt,...
- Hoàng Xuân Hãn 32 tuổi, đang nghiên cứu về Lý Thường Kiệt, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp và Quang Trung ở Thanh Hóa.
- Cao Văn Luận 32 tuổi, đang theo học Triết học và Văn chương tại Đại học Sorbonne.
- Phạm Duy Khiêm 32 tuổi, đang tham gia quân đội kháng chiến Pháp chống phát-xít Đức trước khi trở về Việt Nam dạy học, viết văn, làm báo.
- Nguyễn Gia Trí 32 tuổi, đang thử nghiệm các sáng tác mới bằng chất liệu sơn mài.
- Lê Thiết Hùng 32 tuổi, đang làm đại diện cho Việt Nam Giải phóng Đồng Minh tại Quảng Tây (Trung Quốc).
- Nguyễn Đăng Thục 31 tuổi, đang làm kỹ sư hóa học tại Nhà máy dệt Nam Định và nghiên cứu độc lập về văn hóa Á Đông để chuẩn bị biên soạn hai tác phẩm "Bình giải sách Đại học", và "Tinh thần khoa học và đạo học".
- Hoàng Văn Thụ 31 tuổi, vừa được bầu vào Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Chu Văn Tấn 31 tuổi, đang tham gia lãnh đạo Khởi nghĩa Bắc Sơn.
- Nguyễn Mạnh Tường 31 tuổi, vừa mở văn phòng luật sư tại Hà Nội.
- Hoài Thanh 31 tuổi, dạy học, viết văn, viết báo tại Huế, đang chuẩn bị gửi bản thảo "Thi nhân Việt Nam" cho nhà xuất bản.
- Nguyễn Tiến Lãng 31 tuổi, Giám đốc Kho Lưu trữ, Nghiên cứu, Dịch thuật và Báo chí tại Huế trong Nội các của vua Bảo Đại, vừa kết hôn với cô Phạm Thị Ngoạn - con gái Thượng thư Phạm Quỳnh.
- Ngô Đình Nhu 30 tuổi, đang làm việc tại Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (Hà Nội).
- Nguyễn Hữu Thọ 30 tuổi, đang hành nghề luật sư tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
- Trần Văn Cẩn 30 tuổi, đang chuẩn bị gửi các tác phẩm hội họa của mình sang triển lãm tại Nhật Bản.
- Hồ Hữu Tường 30 tuổi, tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa Mác và Nhóm Đệ Tứ, vừa bị đày ra Côn Đảo cùng Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu...
- Vũ Văn Hiền 30 tuổi, đang làm trợ tá cho giám đốc Nha Tài chánh Đông Dương tại Hà Nội, trước khi mở văn phòng luật sư riêng và tham gia sáng lập báo Thanh Nghị,
- Phạm Văn Xô 30 tuổi, đang giữ chức Bí thư Xứ ủy Lào thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Thạch Lam 30 tuổi, đang làm Chủ bút báo "Ngày nay", sống với vợ con ở Yên Phụ (Hà Nội) trước khi qua đời vào năm 1942 vì bệnh lao.
- Nguyễn Tuân 30 tuổi, đang lẫy lừng với các tùy bút mới.
- Võ Nguyên Giáp 29 tuổi, với bí danh là Dương Hoài Nam, đang cùng Phạm Văn Đồng lên Lào Cai rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp Hồ Chí Minh.
- Trần Văn Giàu 29 tuổi, vừa mới được thực dân Pháp thả khỏi Khám Lớn Sài Gòn.
- Trấn Quý Kiên 29 tuổi, đang là Bí thư thành ủy Hà Nội, ủy viên thường vụ Xứ Ủy Bắc Kỳ, hoạt động trong bí mật.
- Lê Đức Thọ và Lê Thanh Nghị cùng 29 tuổi, đều đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Sơn La.
- Ngô Đình Cẩn 28 tuổi, đang chăm sóc mẹ già tại Huế.
- Xuân Thủy 28 tuổi, đang cùng Trần Huy Liệu phụ trách "Suối Reo" - tờ báo bí mật hai tháng một kỳ, trong Nhà tù Sơn La.
- Nguyễn Huy Tưởng 28 tuổi, đang hăng hái với phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ.
- Vũ Đình Hòe 28 tuổi, đang dạy học tại một số trường tư thục tại Hà Nội trước khi tham gia Nhóm Thanh Nghị.
- Phan Anh 28 tuổi, vừa bỏ dở chương trình Tiến sĩ Luật tại Pháp để về Việt Nam chuẩn bị ra mắt tờ báo "Thanh nghị" với Vũ Đình Hòe, Vũ Văn Hiền.
- Nguyễn Văn Cừ 28 tuổi, vừa bị thực dân Pháp kết án tử hình.
- Phạm Hùng 28 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Côn Đảo.
- Võ Chí Công 28 tuổi, đang là Bí thư Tỉnh ủy Lâm thời Quảng Nam.
- Vũ Trọng Khánh 28 tuổi, vừa được công nhận chính thức là Luật sư và vẫn đang hoạt động bí mật với các đảng viên kỳ cựu của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Hoàng Tích Chù 28 tuổi, chuẩn bị tốt nghiệp tại Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương và mở xưởng vẽ tại phố Hàng Khoai - một trong những xưởng sơn mài đầu tiên của Hà Nội.
- Hàn Mặc Tử 28 tuổi, đang sống những ngày cuối đời tại Nhà thương Quy Hòa (Quy Nhơn).
- Bàng Bá Lân 28 tuổi, đang vui thú điền viên tại Kép (Bắc Giang).
- Nguyễn Hữu Đang 27 tuổi, đang hoạt động trong khối trí vận của Đảng Cộng sản Đông Dương, chuyên lo việc vận động giới tư sản và trí thức.
- Trương Tửu 27 tuổi, chuẩn bị tham gia Nhà xuất bản Hàn Thuyên (Hà Nội) với chức danh Giám đốc Văn chương (tương đương Tổng Biên tập).
- Huỳnh Tấn Phát 27 tuổi, kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên mở văn phòng kiến trúc tư, tại Sài Gòn.
- Hoàng Văn Chí 27 tuổi, vừa đậu Cử nhân Khoa học tại Viện Đại học Đông Dương.
- Trần Đại Nghĩa 27 tuổi, đang làm việc tại Trường Quốc gia Hàng không và Vũ trụ (École nationale supérieure de l'aéronautique et de l'espace) tại Paris.
- Nguyễn Khắc Viện 27 tuổi, chuẩn bị tốt nghiệp ngành Nhi khoa tại Đại học Y khoa Paris.
- Học Phi 27 tuổi, vừa bị thực dân Pháp cho về an trí tại Hưng Yên, bắt đầu viết tiểu thuyết và được giao nhiệm vụ cùng Vũ Quốc Uy xây dựng Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam
- Trương Tử Anh 26 tuổi, đang lãnh đạo Đại Việt Quốc Dân Đảng, lấy Chủ nghĩa Dân tộc sinh tồn làm nền tảng lý thuyết.
- Nguyễn Chí Thanh 26 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Lao Bảo.
- Vũ Văn Mẫu 26 tuổi, đang làm Tri huyện tại Đông Anh (Hà Nội) trước khi sang Paris học Tiến sĩ Luật.
- Nguyễn Phước Bửu Lộc (chắt nội Tuy Lý vương Miên Trinh) 26 tuổi, đang học luật tại Đại học Montpellier (Pháp).
- Lương Xuân Nhị 26 tuổi, đang chuẩn bị cho các triển lãm cá nhân tại Nhật, trưng bày các tác phẩm của ông về thiếu nữ và phong cảnh Nhật.
- Lê Thương 26 tuổi, đang hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng trước khi vào Sài Gòn lập nghiệp.
- Văn Chung 26 tuổi, đang nổi danh với ca khúc "Bóng ai qua thềm".
- Kim Định 25 tuổi, chuẩn bị tốt nghiệp môn Triết học tại Giáo hoàng Chủng viện Thánh Albertô Cả tại thành phố Nam Định và sắp được thụ phong linh mục, trước khi sang Pháp học Triết học tại Học viện Công giáo Paris (Institut Catholique de Paris), và Nho học tại Học viện Trung Hoa Paris (Institut des Hautes Études Chinoises).
- Dương Thiệu Tước 25 tuổi, đang hoạt động nghệ thuật với nhóm nghệ sĩ tài tử Myosotis (Hoa lưu ly) gồm Thẩm Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh...
- Dương Văn Minh 24 tuổi, vừa theo học khóa 1 tại trường Sĩ quan Thủ Dầu Một.
- Phạm Huy Thông 24 tuổi, đang chuẩn bị cho kỳ thi lấy bằng Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ Sử-Địa tại Paris.
- Dương Đức Hiền 24 tuổi, vừa tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, dạy học và hoạt động xã hội, cộng tác viên của tờ "Thanh Nghị".
- Vũ Khiêu 24 tuổi, đang dạy học tư tại tại 23 phố Tiên Sinh (nay là Hàng Gà).
- Thụy An 24 tuổi, vừa kết hôn với nhà giáo Bùi Nhung (em trai học giả Bùi Kỷ).
- Vũ Hoàng Chương 24 tuổi, đang là Phó Kiểm soát Sở Hỏa xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh - Na Sầm, trước khi bước vào thời kỳ sáng tác thơ-kịch.
- Xuân Diệu 24 tuổi, vừa vào Mĩ Tho (nay là Tiền Giang) làm tham tá thương chánh, trước khi ra lại Hà Nội để sống bằng nghề viết văn.
- Hữu Loan 24 tuổi, vừa tham gia phong trào Việt Minh tại Thanh Hóa.
- Nam Cao 23 tuổi, đang chữa mo-rat cho bản in thử của tập truyện ngắn "Đôi lứa xứng đôi".
- Như Phong 23 tuổi, đang làm biên tập viên các báo "Thế giới", "Mới" và "Người mới" - cơ quan ngôn luận của tổ chức chính trị Đoàn thanh niên dân chủ theo khuynh hướng mác-xít.
- Trần Đức Thảo 23 tuổi, đang chuẩn bị bước vào chương trình Cao học Triết tại Đại học Sư phạm phố Ulm (Paris).
- Vũ Khắc Khoan 23 tuổi, vừa tốt nghiệp kỹ sư canh nông trước khi chuyển sang văn học và lịch sử, dạy học ở trường trung học Chu Văn An (Hà Nội).
- Đỗ Mậu 23 tuổi, đang phục vụ tại Tòa Khâm sứ Pháp ở Huế.
- Văn Tiến Dũng 23 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Nhà tù Sơn La.
- Nguyên Hồng 22 tuổi, vừa bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Hà Giang.
- Nguyễn Bính 22 tuổi, bắt đầu nổi tiếng sau khi được giải Khuyến khích của Tự lực Văn đoàn dành cho tập thơ "Tâm hồn tôi".
- Đặng Thế Phong 22 tuổi, vừa sáng tác ca khúc "Đêm thu" với những lời mở đầu bất hủ: "Vườn khuya trăng rãi hoa đứng im như mắt buồn; Lòng ta xao xuyến lắng nghe lời hoa; Cánh hoa vương buồn trong gió; Ánh hương yêu nhẹ nhàng say, gió lay..."
- Nguyễn Văn Thương 21 tuổi, đang nổi danh với bài hát "Đêm đông", được ông sáng tác trong đêm Giao thừa năm 1939, khi ông đi lang thang trên những con phố của Hà Nội vì không có tiền để về Huế.
- Huy Cận 21 tuổi, đang học năm cuối trường Cao đẳng Canh nông và ở cùng Xuân Diệu trong một căn nhà trên phố Hàng Than (Hà Nội)
- Hoàng Tùng 20 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại Nhà tù Sơn La.
- Nguyễn Đình Đầu 20 tuổi, đang tham gia hướng đạo sinh với Hoàng Đạo Thúy ở Hà Nội.
- Chế Lan Viên 20 tuổi, đang nổi như cồn với tập thơ "Điêu tàn" xuất bản trước đó 3 năm.
- Đinh Hùng 20 tuổi, đang ôm mộng văn chương tại Hà Nội, chuẩn bị xuất bản tập văn xuôi "Đám ma tôi", và đăng các bài thơ mới sáng tâc trên tờ "Hà Nội tân văn" của Vũ Ngọc Phan 3 năm sau đó.
- Nguyễn Mạnh Côn 20 tuổi, bắt đầu cộng tác với báo Đông Pháp.
- Tô Hoài 20 tuổi, đang sửa bản thảo tác phẩm "Con dế mèn".
- Kim Lân 20 tuổi, đang chập chững bước vào làng Văn với những truyện ngắn đầu tiên.
- Bùi Xuân Phái 20 tuổi, đang chuẩn bị thi vào Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương.
- Trần Duy 20 tuổi, vừa từ Huế ra Hà Nội để chuẩn bị thi vào Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương.
- Tố Hữu 20 tuổi, đang bị thực dân Pháp bắt đi đày tại nhà lao Thừa Phủ (Huế), Lao Bảo (Quảng Trị)...
- Cao Văn Viên 19 tuổi, đang học Trung học theo giáo trình Pháp tại thủ đô Viêng Chăn (Lào).
- Phạm Duy 19 tuổi, đang theo học dự thính hội họa tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học thầy Tô Ngọc Vân, cùng lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng,... một thời gian trước khi đi làm tự do và tự học nhạc cổ điển, tập sáng tác.
- Thích Thiện Siêu 19 tuổi, đang học Chương trình Phật học Trung cấp tại chùa Trúc Lâm (Huế).
- Thích Thiện Minh 19 tuổi, chuẩn bị tốt nghiệp trường An Nam Phật học do hòa thượng Mật Khế thành lập năm 1934.
- Võ Văn Kiệt 18 tuổi, vừa mới được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Nguyễn Tư Nghiêm 18 tuổi, đang chuẩn bị thi vào Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương.
- Đỗ Nhuận 18 tuổi, đang bắt đầu sáng tác vở ca cảnh "Nguyễn Trãi - Phi Khanh".
- Hoàng Cầm 18 tuổi, chập chững bước vào làng Văn với việc dịch sách cho NXB Tân Dân của Vũ Đình Long.
- Thích Trí Quang 17 tuổi, đang theo học chương trình đào tạo tăng sĩ ở Huế.
- Nguyễn Văn Thiệu 17 tuổi, chuẩn bị tốt nghiệp trường dòng Công giáo Pellerin tại Huế trước khi trở về quê Ninh Thuận làm nông cùng với gia đình và chờ thời.
- Trần Độ 17 tuổi, vừa gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Văn Cao 17 tuổi, đang trên đường rời Huế vào miền Nam sau khi viết xong bài thơ đầu tay: "Một đêm đàn lạnh trên sông Huế" với câu kết bất hủ: "Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh".
- Nguyễn Sáng 17 tuổi, đang theo học tại Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương.
- Tô Vũ 17 tuổi, đang hoạt động âm nhạc trong Nhóm nhạc Đồng Vọng, cùng với Hoàng Quý, Phạm Ngữ, Canh Thân, Văn Cao.
- Trần Quốc Hương 16 tuổi, đang theo học trường dòng tại phố Nhà Chung (Hà Nội).
- Nguyễn Đình Thi 16 tuổi, mới tham gia Tổ Văn hóa cứu quốc.
- Hoàng Trung Thông 15 tuổi, đang theo học tại Trường Quốc học Vinh.
- Thích Nhất Hạnh 14 tuổi, chuẩn bị xuất gia tại chùa Từ Hiếu (Huế).
- Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, 20 tuổi, lập đạo Hoà Hảo được một năm, tháng 8.1940 bị thực dân Pháp quản thúc tại Sa Đéc.
- Lý Đông A, 19 tuổi, làm ủy viên chính trị cho Phục quốc quân, cánh quân sự của Việt Nam Quang phục Hội, chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở Lạng Sơn. Khởi nghĩa thất bại, Lý Đông A chạy thoát sang Trung Quốc.
- Trần Dần 14 tuổi, đang học bậc Thành chung ở Nam Định và chuẩn bị lên Hà Nội học Tú tài Triết.
- Mai Thảo 13 tuổi, đang học Trung học tại Nam Định.
- Phạm Đình Chương 11 tuổi, đang học Trung học tại Trường Bưởi (Hà Nội).
- Trần Quốc Vượng 6 tuổi, đang học tiểu học, cả tiếng Tây, tiếng ta và chữ Hán ở trường Pháp Việt ngày hai buổi, trừ thứ năm và chủ nhật.
Tất cả trong số họ, có lẽ rất ít người nhận ra được một trận "sạch không kình ngạc" trên mặt trận văn hóa diễn ra chỉ chưa đầy một thập niên tiếp theo.
Và trong lúc này, gần 90% dân số của khoảng 20 triệu người Việt đang bị mù chữ.
-----
Nguồn :
Fb Nguyễn Trung Kiên
Người xem bói cho vua Bảo Đại và các tướng lĩnh chính quyền Sài Gòn.
Cụ Ngô Hùng Diễn, thường được gọi là “thầy bói Diễn”, là một nhà tướng mệnh học nổi tiếng từ cuối thập niên 1930 cho tới khi cụ qua đời, vào năm 1974.
Quan niệm về tướng số của cụ rất rõ rệt: “Xem tướng xem số là để làm điều lành, tránh điều dữ”. Cụ rất phiền hà khi có người muốn nhờ cụ đem phú quý vinh hoa tới cho mình, kiểu “muốn gỡ nhà người khác đem về làm chuồng heo !”. Theo cụ thì nghề thầy số là nghề… tổn âm đức, vì trong mọi tình huống khi đã xem cho ai, hướng dẫn người xem làm này tránh kia đều là “tiết lộ thiên cơ”. Có lẽ vì vậy nên cả đời cụ chẳng bao giờ dư dã, chỉ đủ ăn đủ mặc và không có con trai nối dõi (chỉ sinh duy nhất có một bà con gái, hiện vẫn còn ở Việt Nam).
Vì quan niệm trên (tổn âm đức) nên cụ không có học trò theo đúng nghĩa.
Đầu năm 1973, khi hiệp định Paris về chiến tranh Việt Nam được thi hành thì cụ đã tiên đoán rằng tương lai miền Nam Việt Nam sẽ rơi vào tay phe cộng sản. Về các chính khách đặc biệt cụ đề cập đến 3 nhân vật đóng vai trò then chốt trong ngày mất nước là Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu. Cụ nói: “Khi Việt Nam Cộng hòa chỉ cần một trong ba bộ mặt sau đây lên nắm vận mệnh thì cầm chắc trong tay ngày mất nước đã tới. Đó là mặt ướt Dương Văn Minh, mặt sưng Vũ Văn Mẫu và mặt tuột Nguyễn Văn Huyền”. Vào ngày 28 tháng 4 năm 1975, đúng lúc trời đang sáng sủa bỗng tối xầm lại, đài phát thanh Sài Gòn loan tin chính phủ mới, một lúc xuất hiện chình ình ba bộ mặt định mệnh “Ướt, Sưng, Tuột” thì sự việc mất nước là điều dĩ nhiên đã được Thiên Cơ an bày rồi vậy. Nếu đài BBC hay ký giả Derek Wilson có nhận lệnh của ai đó để loan tin bậy về Việt Nam, tiếp tay cho việc cưỡng chiếm miền Nam thì cũng là chuyện đã nằm trong định liệu của Tạo Hóa (Thiên Cơ Định Mệnh)….
Trước khi qua đời, cụ được xem một số hình ảnh các nhân vật trong chính phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Cụ cho biết: “đa số quyền cao, cằm đánh vào, là những người có danh mà không có lợi”. Quả nhiên sau khi chiếm được miền Nam không lâu, cả Mặt Trận Giải Phóng lẫn chính phủ do Mặt Trận lập ra đều bị giải thể không kèn không trống. Mặt Trận ra đời năm 1960 với trống rung cờ mở inh ỏi ở Hà Nội vang dội ra ngoài thế giới, khi giải thể chỉ được loan tin đúng 5 dòng chữ corp 6 nơi trang chót của báo Nhân Dân. Nhà viết tự điển Thanh Nghị theo Mặt Trận vừa được cấp cho ngôi nhà góc đường Thống Nhất/Hai Bà Trưng, trông sang trụ sở công ty xăng Esso (ngôi nhà sơn trắng, mái xanh), ở chưa nóng đít là đã bị…. đá đít ra ngoài.
Cụ được hầu hết các nhân vật chính trị lẫn quân sự thời đó mời tới hỏi ý kiến. Cụ nói tướng cách ông Nguyễn Văn Thiệu tai bạt hậu nên không chịu nghe ai, hạ đình bị phá cách nên hậu vận hư hết. Trong thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống, cụ thường được mời vào dinh Độc Lập dùng cơm và nói chuyện thời thế, cụ chỉ yên lặng và nghe nhiều hơn là nói. Lần Nguyễn Văn Thiệu độc cử, cụ có tìm cách khuyên khéo, nhưng Nguyễn Văn Thiệu là người chỉ thích làm theo ý mình (duy ý chí). Về bà vợ thì cụ khen là người nhã nhặn, có giáo dục và vượng phu ích tử.
Tướng cụ cao lớn, dáng đi lắc lư, hai tay ve vẩy, là một trong các cách tướng rất xấu: cách tướng của người hành khất. Nhưng nhờ có những nét tướng khác bù đắp nên cuộc đời cụ tuy không giàu sang, nhưng lúc nào cũng phong lưu. Cụ không có con trai, nhưng khi qua đời cũng vẫn có người chống gậy, là đứa cháu trai gọi bằng chú được cụ “hành sao” cứu mạng năm xưa. Ngoài ra cụ còn có vô số người nhận làm cha nuôi. Đám tang cụ vào tháng 3 âm lịch năm Giáp Dần 1974 khăn trắng chít dài hàng mấy cây số, được coi là một trong số những đám tang lớn nhất trong lịch sử Hòn Ngọc Viễn Đông. Thành phần tham dự ngoài thân nhân họ hàng không quá 50 người, còn lại đều là bè bạn và những người đã từng chịu ơn cụ.
Cụ nói xem tướng không khó, sửa tướng mới khó. Đối với môn địa lý cũng vậy. Có những ngôi nhà người tới ở thường bị đau yếu, nhờ cụ giúp đỡ, cụ chỉ cần thay đổi giường nằm, bàn thờ, hoặc có khi là vị trí cầu tiêu thì tự nhiên đời sống phấn chấn hanh thông hẳn lên.
Hồi sinh thời, cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật Học Nam Việt, mời cụ xem vị thế chùa Xá Lợi. Cụ nói Chùa cần xây cổng về hướng con đường nhỏ, bên cạnh, nếu không sẽ có đổ máu. Cụ Mai Thọ Truyền và ban quản trị đều không tin. Khi có vụ Phật giáo tranh đấu đưa tới cuộc cách mạng 1/11/1963, Chùa Xá Lợi trở thành bãi chiến trường người ta mới tin lời cụ. Sau này Chùa được sửa sang lại, làm thêm chiếc cổng bên hông. Cổng chính chỉ mở vào dịp lễ lớn ở mặt đường bà Huyện Thanh Quan, còn hàng ngày ra vào đều dùng cổng bên hông.
Sau cách mạng 1/11/1963 các vị tăng ni muốn tìm một vùng đất rộng để xây dựng một Trung Tâm Phật Giáo. Thượng Tọa Thích Tâm Giác mời cụ đến hỏi ý kiến. Cụ, sau nhiều ngày đi trực thăng xem đất, chỉ vào một khu thuộc Thị Nghè. Lúc đó xa lộ Biên Hòa chưa làm xong, cầu bê-tông nối từ Văn Thánh sang phía ấp Thảo Điền và xã An Khánh Thủ Đức chưa có… Lúc đó, Phật giáo không biết nghe ai bàn, quyết tâm xin bằng được miếng đất ở số 16 đường Trần Quốc Toản. Cụ lại được mời tới coi. Cụ hoàn toàn không đồng ý, vì lẽ khu đất này “hăng tê”, vua chúa Triều Nguyễn khi xưa đã dùng nơi đây làm pháp trường. Thượng Tọa Tâm Giác một mực khăng khăng nói “Phật tới đâu, lành tới đó”. Khi ngôi Chùa Việt Nam Quốc Tự dựng xong với gỗ và tôn … thì nội bộ Phật giáo bắt đầu lủng củng rắc rối. Thật ra thì sự lủng củng này đã có từ trước, nhưng vào thời gian đó mới vỡ tung ra. Cụ thường nói nơi thờ cúng cần chỗ đất tốt, vì quy tụ nhiều người lễ bái. Thế đất 16 đường Trần Quốc Toản có một con lạch như mũi dao đâm sâu vào trong, nhất là tam quan Chùa Việt Nam Quốc Tự làm bằng gỗ và tôn có dáng dấp như cổng nghĩa trang thì dữ nhiều lành ít. Sau này Thượng Tọa Tâm Giác dù có quyết tâm xây ngôi bảo tháp nhưng vẫn không thể hoàn thành. Thời gian trước khi cụ Diễn qua đời, Thượng Tọa Tâm Giác tỏ ý hối tiếc về chuyện đã qua và ngỏ lời xin lỗi. Về miếng đất cụ Diễn “cắm” cho nhà Chùa, sau này trở thành khu Tân Cảng rộng lớn với sông nước hữu tình… thì ai nấy đều tiếc hùi hụi.
Năm 1945, Việt Minh nắm chính quyền, vua Bảo Đại thoái vị trở thành công dân Vĩnh Thụy, cụ tiên đoán thời của vua Bảo Đại hãy còn. Một hôm trong hàng chả cá Lã Vọng ở Hà Nội gặp vua Bảo Đại, cụ cúi mình chào “Hoàng Thượng”. Vua Bảo Đại rối rít đỡ cụ và nói ông không còn làm vua nữa, nhưng cụ một mực gọi “Hoàng Thượng” và mách cho vài điều về mệnh vận trong vài năm sắp tới… Quả nhiên sau đó vài năm (1949), vua Bảo Đại thành vị Quốc Trưởng của chế độ Quốc Gia đầu tiên đương đầu với chủ thuyết vô thần.
Gần dinh Độc Lập có một biệt thự của Pháp để lại, biệt thự khá lớn, nhưng không ai có thể ở lâu được, vì trước sau người ở cũng gặp chuyện bất hạnh. Cụ có tới coi và nói: “Nhà này chỉ có tướng tinh như Đức Thánh Trần Hưng Đạo mới ở được mà thôi”. Sau 1/11/1963, tướng Dương Văn Minh mời cụ lại và cười tự đắc hỏi: “Bây giờ cụ thấy sao? Tôi ở được chứ?”. Không muốn đẩy đưa với tướng Minh, cụ đáp cho xong chuyện: “Bây giờ ngài đã là Quốc Trưởng rồi mà!”. Câu nói bỏ lửng ở đấy. Nhưng về nhà cụ nói với con cháu: “Chết đến nơi rồi mà vẫn còn tự đắc!”. Quả nhiên sau đó không lâu có cuộc chỉnh lý và tướng Minh bị hạ bệ. Sau này biệt thự thuộc chủ quyền một nhà tỷ phú Việt Nam. Biết thân biết phận nhà tỷ phú này xin ý kiến cụ. Cụ bảo: “Có thể ở, nhưng không được ở phòng khách và toàn bộ ngôi nhà trên… Nơi đây chỉ có thể tiếp khách, làm văn phòng, còn ăn ngủ thì xuống nhà dành cho…. bồi bếp!” Nhà tỷ phú nghe lời cho sửa lại khu nhà phụ cận để ở và không gặp chuyện rủi ro nào, ngoài cái rủi ro mất nước mà toàn dân miền Nam Việt Nam đều phải gánh chịu, chứ không phải chỉ mình ông.
Về sinh hoạt thế giới khi đề cập tới nước Anh, cụ nói Thái Tử Charles, con của Nữ hoàng Elizabeth II, không có tướng làm Vua. Ngôi vua nước Anh rồi đây sẽ trở lại dòng vị cựu hoàng thoái vị. Cách đây trên nửa thế kỷ, vị cựu hoàng này đã từ bỏ ngai vàng cưới một phụ nữ Mỹ ly dị chồng, nhường ngôi cho người em, tức Vua George VI, thân phụ của nữ hoàng hiện nay. Tuy sự việc chưa xảy ra, nhưng dù sao cũng là một đề tài chiêm nghiệm. Một bài toán chưa có đáp số.
Cụ Ngô Hùng Diễn mất ngày 13 tháng 3 năm Giáp Dần (1974) tại Quân Y Viện Cộng Hòa, an táng tại nghĩa trang Phước Hòa, Gò Vấp Gia Định.
Giáo Sư Trần Quang Quyến
Sau 9 năm theo học Cụ Ngô Hùng Diễn và 45 năm áp dụng những điều học được để giúp bạn hữu và những người quen biết khi cần một vài ý kiến thuộc lãnh vực “huyền bí”, tác giả đã có ý định viết quyển TƯỚNG PHÁP NGÔ HÙNG DIỄN. Năm tháng qua đi, nay quyển sách đã được viết xong. Tác giả coi đây là một lễ vật để tạ ơn người Thày, đã như hình với bóng, như tấm gương để noi theo cho suốt cuộc đời. Tác giả cũng hy vọng tài liệu này được chấp nhận như một đóng góp khiêm tốn vào lãnh vực nhân tướng học, nói chung và như một viên gạch để xây nền móng cho khoa nhân tướng của Việt Nam, nói riêng.
Một trường hợp khác
Trần Lệ Xuân sinh ngày 22/8/1924, trong một gia đình quyền quý. Cha bà là luật sư Trần Văn Chương, con trai cả của Đông Các Đại học sĩ Trần Văn Thông. Mẹ bà là quận chúa Thân Thị Nam Trân, con gái của Đông Các Đại học sĩ Thân Trọng Huề. Ông Chương là đại địa chủ và là luật sư đầu tiên của Việt Nam có bằng tiến sĩ luật của Pháp. Cụ Ngô Hùng Diễn xem tướng cho Trần Lệ Xuân vào năm 1940, khi người con gái tài sắc này mới tròn 16 tuổi, xem ngay tại nhà riêng của luật sư Chương ở Hà Nội. Lời phán của thầy Diễn cho Trần Lệ Xuân như sau: “Cô là một người phụ nữ danh giá. Chồng cô chỉ đứng sau một người và trên cả triệu người. Nhưng trong cuộc đời, cô tuyệt đối không được rời xa nhà chồng. Nếu cô rời xa nhà chồng thì cả gia đình nhà chồng sẽ gặp đại họa”. Và cuộc đời của Trần Lệ Xuân đã diễn ra đúng như vậy. Mười tám tuổi, Trần Lệ Xuân lấy chồng và đó là Ngô Đình Nhu, em trai Ngô Đình Diệm. Sau này Ngô Đình Nhu trở thành cố vấn đặc biệt của Ngô Đình Diệm, đúng là dưới một người và trên cả triệu người.
Nhưng biến cố năm 1963 cũng xảy ra khi bà Trần Lệ Xuân rời gia đình sang Mỹ. Chồng cùng gia tộc họ Ngô gần như bị tận diệt. Rõ ứng với những gì cụ Diễn đã tiên đoán.
Trước đó các lần đảo chính của phe chống ông Ngô Đình Diệm thì đều được bà chuyển dữ thành lành. Thậm chí là lúc tổng thống bị ném bom tại dinh Nordom cũng chẳng làm gì được gia đình bà.
Biến cố năm 1963 âu cũng là một định mệnh không thay đổi được.
(Nguồn: từ Fanpage Sài Gòn Văn Sử, chia xẻ từ Fbker Đang Phuong Le Minh)






















Trần trụi là gì? (What is Nakedness?) - Bài dịch bởi Blu
Vì sao lại là sự trần trụi? Một lời biện minh cho cuộc khảo cứu của chúng ta
Chúng ta đang sống trong một thời đại già cỗi, khi mà việc đặt những câu hỏi ngây thơ về trải nghiệm dường như không còn phù hợp nữa. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, những câu hỏi như vậy vốn đã nhận vô số lời hồi đáp - giờ đây phần lớn đều không còn sức hút - đến mức việc tiếp tục viết ra thêm câu trả lời mới dường như chỉ tổ lãng phí công sức, vì chúng cũng sẽ sớm phải chịu chung số phận với những tiền nhiệm: bị ném lên đống rác văn hóa còn đương cháy âm ỉ. Việc đặt ra những câu hỏi "xưa rồi Diễm" này đã trở nên "passé" (lỗi thời), một hoạt động quá đỗi tham vọng, quá đỗi phù phiếm đối với giới triết gia ngày nay - và bị đẩy về lãnh địa của những kẻ tay ngang và "dân chơi" nghiệp dư. Có lẽ thực trạng này bắt nguồn từ chính bản chất của những câu hỏi ấy: chúng thiếu đi tính hữu dụng, hình thái của chúng lại không ngừng thay đổi, không thể bị gò ép vào những “trò chơi ngôn ngữ” cứng nhắc của diễn ngôn trí thức đương đại.
Tôi cho rằng đây là một bi kịch sâu sắc, bởi chỉ khi ta đặt lại những câu hỏi cũ và đưa ra những câu trả lời mới - mà thật ra chẳng bao giờ hoàn toàn mới, và sớm muộn gì cũng trở nên lỗi thời - thì ta mới nhận ra trạng thái nền tảng nhất của mình: những hữu thể sống bằng trải nghiệm, với năng lực cốt lõi là đặt câu hỏi (tri nhận và phản tư), chứ không phải trả lời câu hỏi (hệ thống hóa và kiến tạo). Do đó, mục tiêu của cuộc khảo cứu này không phải là để xây dựng điều gì đó mới mẻ, tạo ra điều gì đó trường tồn, hay bay vút đến những đỉnh cao, mà là để đi xuống - xuống sâu vào lớp vật chất nguyên sơ và khai mở những điều ai cũng biết nhưng đã quên. Chạm đến những ý tưởng mãi thổn thức với thời gian nhưng phần lớn lại ngủ yên trong tâm trí, và diễn đạt chúng bằng một ngôn ngữ mà thời đại này có thể hiểu được.
Vì vậy, thứ chúng ta tìm cách chữa lành không phải là sự ngây thơ, mà là sự quên lãng. Sự quên lãng là họ hàng của giấc ngủ, và nó khiến mọi nỗ lực của ta trở nên khiêm tốn. Thế nhưng, trong những thời khắc đặc biệt, nó bất chợt tan đi và cho phép ta nhìn rõ thế giới quanh mình. Nó để lại trong ta một nhận thức nhẹ nhàng nhưng cũng khủng khiếp: rằng ta vẫn đang sống trong một ngôi nhà nguyên sơ, không thể thoát ra, nơi mà bao người đã từng sống trước ta và vô số người sẽ chuyển tới sống sau khi ta tàn lụi. Tại nơi ấy, giữa những người bạn đồng hành tuyệt vời, tham vọng và hành động của ta trở nên dịu lại, khi ta nhận ra những dấu vết chồng chéo nhau của các nỗ lực xưa cũ - và thấy rằng rồi chúng cũng sẽ quay về chính câu hỏi ban đầu.
Tuy vậy, ta vẫn chưa đi được đến điểm bắt đầu. Chúng ta vẫn chưa thật sự nhớ rằng mình đã quên. Bước đầu tiên để quay về ký ức ấy là đặt câu hỏi, và bước thứ hai là cố gắng trả lời nó - bằng cách tự mình gọi tên cho những yếu tố mơ hồ hiện lên để đáp lại lời gọi đó.
Trần trụi là gì? What is Nakedness?
Để trả lời câu hỏi này một cách sâu sắc, chúng ta buộc phải thực hiện một hành vi gần như “lệch chuẩn” về mặt trí tuệ: hành vi khai quật khái niệm - tức là gạt bỏ những lớp vật chất đóng váng quanh ý niệm nguyên thủy. Vì vậy, hệ thuật ngữ mà chúng ta sử dụng trong cuộc khảo cứu này được thiết kế riêng cho công cuộc khai quật đó, và không phải lúc nào cũng tương thích với lối nói thông thường.
Một vài lưu ý
Chúng ta đang xem xét kỹ khái niệm nakedness (sự trần trụi), một từ tiếng Anh có một số từ tương đương trong các ngôn ngữ phương Tây khác. Chúng ta phân tích nó hoàn toàn từ điểm nhìn phương Tây, và không coi các tuyên bố hay phát hiện trong bài viết này mang tính phổ quát. Phần cuối của tiểu luận sẽ bàn luận rõ ràng về tính tùy cơ (Contingency) về mặt khái niệm của “nakedness”. Nếu được kết hợp với nghiên cứu thực nghiệm, việc này có thể dẫn tới các kết luận về tính tùy cơ văn hóa của khái niệm này. Tuy nhiên, đó không phải là phạm vi mà bài viết này hướng đến.
Cũng cần phải phân biệt rõ ràng giữa nakedness - khái niệm mà chúng ta luôn gắn với sự phơi bày về mặt tâm lý và cảm xúc, với nudity - khái niệm mà chúng ta coi là một hình thức phơi bày thể xác thuần túy, không nhất thiết liên quan đến sự bộc lộ tâm lý hay cảm xúc. Một người có thể cảm thấy trần trụi (naked) mà không cần phải khỏa thân (nude); ngược lại, một người có thể khỏa thân mà không hề cảm thấy trần trụi theo bất kỳ nghĩa sâu sa nào cả.
Hành trình của chúng ta sẽ giống như một vòng xoáy hay một đường xoắn ốc, lặp đi lặp lại trên cùng một nền tảng, nhưng mỗi lần lại ở một tầng sâu khác nhau. Phương pháp này có thể được xem là không chính thống, nhưng hoàn toàn có chủ ý.
Chúng ta sẽ bắt đầu bằng cái nhìn tổng quan về “sự trần trụi” và các yếu tố cơ bản của nó (Phần I).
Sau đó, ta sẽ xác định mối quan hệ nền tảng giữa sự trần trụi và bản ngã, cũng như cách nó được biểu đạt thông qua ngôn ngữ (Phần II).
Dựa trên những nền tảng đó, ta sẽ nhìn sâu vào cách mà sự trần trụi vận hành trong đời sống thường nhật - và cố gắng hiểu cách các sự vật, hiện tượng khiến ta trở nên trần trụi (Phần III).
Cuối cùng, ta sẽ bàn đến tính tùy cơ (contingency) về mặt khái niệm của “nakedness”, để hiểu cách những thay đổi trong các khái niệm nền tảng dẫn đến sự biến đổi của chính khái niệm về sự trần trụi (Phần IV).
Không dài dòng thêm nữa, chúng ta hãy bắt đầu cuộc khảo cứu thôi nào.
Phần I: Bản chất phơi bày của sự che giấu
Ở cấp độ bề mặt, sự trần trụi là hành động để lộ những phần của bản thân vốn dĩ bị (hoặc được chủ đích) che đậy. Đó là cảm giác khi những gì ta giấu kín nay lại được đưa ra ánh sáng và bị nhìn thấy. Đây là một mô tả khá trừu tượng nhưng đồng thời vô cùng hiển nhiên. Tuy nhiên, xét đến tính đa dạng trong những trải nghiệm nơi sự trần trụi có thể xuất hiện, tôi tin rằng chỉ có một định nghĩa khởi đầu rộng như vậy mới đủ để phục vụ mục tiêu của chúng ta. Đây chính là điểm xuất phát. Mục tiêu của bài tiểu luận này là làm rõ định nghĩa đó - bóc tách các yếu tố và cơ chế cốt lõi của nó.
Sự trần trụi, như một hiện tượng, được cảm nhận rõ ràng và sâu sắc nhất thông qua mối liên hệ với cơ thể con người. Có vẻ như các động thái ta thực hiện trong việc giấu kín, đóng khung và phô bày những vùng nhất định của cơ thể là một phiên bản vi mô của việc đóng/mở bản ngã ở tầng sâu hơn. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là cái này mô phỏng, lặp lại hay phản chiếu cái kia; mối quan hệ giữa chúng (cơ thể và bản ngã) dường như hoàn toàn phụ thuộc vào bối cảnh văn hóa và lịch sử, thường mang tính nghịch lý hoặc đảo ngược. Dù vậy, vẫn có một sự gợi mở và liên kết có ý nghĩa đáng kể giữa hai thứ ấy.
Thực tế rằng cơ thể bộc lộ điều gì đó về ta, cho thấy cơ thể là một ký hiệu (trong ngôn ngữ), mang năng lực mặc khải (năng lực tiết lộ điều thần bí). Nhiều người tin rằng cơ thể sở hữu một quyền năng gần như nội tại trong việc tạo ra ý nghĩa và tự biểu lộ. Tuy nhiên, chỉ cần quan sát các nền văn hóa và lịch sử khác nhau cũng có thể thấy rằng việc phơi bày cơ thể không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với bộc lộ bản thân. Một thân thể có thể trần truồng - tức là không được che đậy - nhưng vẫn không trần trụi nếu như nó không tiết lộ điều gì có ý nghĩa về bản thân người đó. Vai trò hiện tại của cơ thể trong văn hóa và hệ quy chiếu phương Tây đương đại là một sản phẩm của các yếu tố tâm lý và văn hóa đặc thù của thời đại.
Vì chúng ta đang sống trong hiện tại, ta sẽ khảo sát chính thực tại đó để truy tìm những trải nghiệm sâu hơn của sự trần trụi - vượt qua khỏi sự phơi bày đơn thuần về thể xác - nhằm hiểu được vì sao cơ thể lại sở hữu quyền năng hiếm có trong việc tiết lộ bản thân, và đồng thời, nhận ra ta đang giấu diếm điều gì khi che đậy nó lại.
Nhận thức nổi bật nhất về sự trần trụi - rút ra từ cách ta tương tác với cơ thể - chính là: sự trần trụi chỉ xuất hiện khi xảy ra tương tác giữa hai lực đối lập: che giấu và phơi bày. Nói cách khác, sự trần trụi chỉ có thể xảy ra với những gì vốn được che đậy hoặc giấu kín, sau đó được bộc lộ hoặc phơi ra ánh sáng. Một thứ mà ta cho là đã được phô bày một cách chủ động, có chủ đích, đã được nhìn thấy - thì không gọi là trần trụi, mà chỉ là một hình thức hiện diện thông thường. Ngược lại, sự trần trụi chỉ xuất hiện trong những bối cảnh mà người ta biết rõ sự vật đó tồn tại, nhưng lại kỳ vọng rằng nó sẽ bị giấu đi, không được đại diện hoặc không được cho thấy.
Vậy, hành động che đậy hay giấu đi có ý nghĩa gì? Tại sao ta lại thấy cần phải giấu đi điều gì đó?
Chỉ những thứ có ý nghĩa, mang tính bộc lộ mới đáng để giấu. Ta chỉ giấu chúng đi khi không thích, hoặc đúng hơn, không kiểm soát được điều mà chúng đang nói - và thời điểm mà chúng nói ra điều đó. Nói ngắn gọn thì những gì có thể trở nên trần trụi là những thứ thường bị giấu đi, và ta giấu chúng đi vì chúng mang tính mặc khải (tiết lộ). Nghịch lý nằm ở chỗ: hành động che giấu, về bản chất, lại là một hành vi phơi bày - vì việc ta che giấu điều gì đã ngầm tuyên bố rằng điều đó có ý nghĩa và đáng phải che giấu. Nếu điều ấy không bị che giấu, người ta sẽ không cho rằng nó có tính tiết lộ hoặc đáng bận tâm.
Che giấu, do đó, lại là một hành vi phơi bày.
Chính từ nghịch lý nhân quả giữa việc che giấu và phơi bày kể trên mà trải nghiệm của sự trần trụi được hình thành và ràng buộc. Trong xã hội đương đại, cơ thể vận hành như một ký hiệu, như thứ cần được che đậy vì nó có khả năng bộc lộ bản thân ta trước người khác. Nhưng như đã nói, bản thân cơ thể không mang tính tiết lộ một cách nội tại; nó chỉ trở nên có ý nghĩa khi người ta gán cho nó năng lực phơi bày bản ngã.
Và điều này dẫn tới một câu hỏi lớn hơn:
Tại sao chúng ta lại phải giấu kín bản ngã của mình?
Phần II: Ngôn ngữ và Bản ngã
Chúng ta mong muốn hiểu được xu hướng giấu bản thân khỏi người khác. Để làm được điều đó, trước tiên ta phải khai mở những đặc tính của bản ngã khiến ta cảm thấy cần phải giấu nó. Việc xác lập điều này sẽ giúp ta phân tích cách bản ngã tương tác với ngôn ngữ - một điều thiết yếu, bởi ngôn ngữ chính là phương tiện trung gian mà qua đó mọi hành vi phơi bày và che giấu diễn ra.
Chủ thể tối hậu của sự trần trụi là bản ngã. Bản ngã là nơi cư ngụ về tâm lý - tinh thần của ý thức không qua trung gian, là trạng thái hiện diện trọn vẹn. Khi bản ngã được hiện thân một cách thuần khiết, ý thức nhận biết chính nó, và do đó, nhận biết thế giới một cách trực tiếp - không bị cuốn vào các biểu tượng (khái niệm, hình ảnh) đại diện cho bản thân hay cho thế giới. Con người hiếm khi - nếu không muốn nói là gần như không bao giờ - thể hiện trọn vẹn trạng thái thuần khiết của cái tôi và tương tác với sự hiện hữu (being) một cách trực tiếp, không qua trung gian. Phổ biến hơn nhiều là một phiên bản cái tôi bị pha loãng đáng kể, nơi ta ít ý thức về chính sự tự nhận thức của mình, từ đó dễ nhầm lẫn các khái niệm với hiện thực, thay vì hiểu chúng chỉ là sự đại diện cho hiện thực.
Các khái niệm cho chúng ta biết ý nghĩa của một trải nghiệm cụ thể, và vì vậy, chúng ban cho ta một dạng quyền lực nhất định đối với “hiện hữu” (being) thông qua kỹ thuật diễn giải. Việc diễn giải cho phép ta phân loại và gọi tên hiện hữu (being), mang lại cho ta khả năng giải thích và dự đoán thế giới. Về lý thuyết, điều này giúp ta bớt bị chi phối bởi kinh nghiệm và có thể hành động với mức độ chủ động cao hơn. Các khái niệm do đó làm giảm cường độ của “cái tôi” bằng cách trung gian hóa bản thể, và nhờ vậy, mở ra khả năng cho ta bước ra khỏi chính trải nghiệm của mình.
Dĩ nhiên, khi chúng ta thiếu vắng hoặc gỡ bỏ những khái niệm vốn trao cho ta quyền lực đối với tồn tại, để rồi biểu hiện cái tôi ở một hình thái thuần khiết hơn, ta trở nên mong manh - và trải nghiệm lúc ấy hiện lên mãnh liệt, bất định hơn nhiều. Chính mối liên hệ cốt lõi giữa sự mở toang của cái tôi với cảm giác dễ tổn thương, dữ dội và bất lực đã khiến cái tôi trở thành thứ cần được che giấu khỏi người khác, và ta chỉ dám tiếp cận một cách thận trọng với chính mình. Ta từ chối phơi bày cái tôi trước người khác - những kẻ có thể làm tổn thương ta - bởi khi ở trạng thái đó ta thiếu đi các khái niệm cần thiết để tự vệ hay đáp trả. Ta không muốn người khác biết hay nhìn thấy bản ngã thực sự của ta bởi phần lớn chúng ta tin rằng cái tôi chân thực là lúc ta dễ tổn thương nhất. Chính những phẩm chất như dễ tổn thương và bất lực ấy là những yếu tố nền tảng của cái tôi - thứ thôi thúc ta giấu nó khỏi người khác và khỏi thế giới.
Trải nghiệm về bản ngã là một trải nghiệm mang tính cá nhân sâu sắc. Người ta tin rằng tôi chỉ có thể trải nghiệm thế giới như chính bản thân tôi, và bạn cũng vậy - tôi không thể nhìn thế giới qua đôi mắt của bất kỳ ai khác ngoài chính mình. Để vượt qua sự ngăn cách này, chúng ta học hỏi và tiếp nhận các khái niệm của người khác - những hệ thống và khuôn khổ diễn giải thông qua đó chúng ta tiếp cận với sự hiện hữu. Việc tiếp nhận các khuôn khổ khái niệm của người khác cho phép ta tới gần và chia sẻ phần nào trải nghiệm của họ. Khi tôi tiếp nhận cách bạn diễn giải thế giới, tôi có thể đến gần hơn với trải nghiệm của bạn về thế giới. Quá trình đồng hóa cách nhìn thế giới của bản thân với người khác chính là quá trình tiến gần đến ai đó, và đây là một yếu tố nền tảng trong những trải nghiệm rộng hơn như tình bạn và sự thân mật. Đây là một quá trình có tính thương lượng và được ta kiểm soát, trong đó các bản ngã dần dần tiếp cận lẫn nhau.
Các khái niệm, thông qua ngôn ngữ, trở thành trung gian giữa sự hiện hữu và bản ngã. Ngôn ngữ là một phương tiện (một thứ ở giữa các bản ngã) mang ý nghĩa và có chủ đích truyền đạt ý nghĩa; do đó, ý nghĩa là yếu tố thiết yếu của ngôn ngữ. Theo định nghĩa này, điều quan trọng cần lưu ý là ngôn ngữ không nhất thiết phải mang tính khái niệm, bởi có nhiều dạng ý nghĩa không thể biểu đạt thông qua các khái niệm. Cơ thể, như chúng ta đã bàn đến ở trên, là một trong những dấu hiệu phi khái niệm như vậy - nó chứa đựng rất nhiều ý nghĩa, nhưng sức mạnh tự hiển lộ của nó không được diễn đạt bằng các khái niệm. Khái niệm chỉ là một phần rất nhỏ của ngôn ngữ, chúng đặt tên cho những thành phần của hiện hữu dựa trên tập hợp các đặc tính nhất quán, gom những tập hợp đó thành các cái tên riêng biệt, phân vào các phạm trù theo trật tự logic. Việc hình thành các khái niệm trao cho con người quyền năng nhất định trong việc giải thích, dự đoán và suy diễn về hiện hữu.
Giờ đây khi ta đã hiểu rằng cái tôi thường được bộc lộ dần dần qua giao tiếp & tình thân, yếu tố độc nhất của sự trần trụi bắt đầu hiện rõ: đó chính là tính đột ngột và quy mô to lớn của việc cái tôi bị phơi bày trước người khác.
Hai hình thức bộc lộ này thường song hành trong trải nghiệm thực tế, bởi việc tiếp nhận hệ thống diễn giải của người khác cho phép các bản ngã dần tiến gần lại nhau và tạo ra cảm giác an toàn cần thiết để con người thấy thoải mái khi bộc lộ bản thân nhiều hơn - điều này được thực hiện thông qua việc phơi bày và tiếp nhận thân thể. Trong nhiều nền văn hóa đương đại, cơ thể là dấu hiệu nền tảng, nó tiết lộ quá nhiều về cái tôi, buộc chúng ta phải kìm nén năng lực biểu đạt của nó bằng cách che giấu cho đến khi cảm thấy an toàn - khi ta biết rằng người khác thật sự muốn “thấy” ta, và biết chắc rằng ta sẽ không bị tổn thương bởi hệ thống diễn giải của họ.
Khi đã hiểu rõ hơn về cái tôi và mối quan hệ của nó với người khác thông qua ngôn ngữ, ta có thể đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về sự trần trụi: trần trụi là sự tiếp cận đột ngột của người khác hướng tới cái tôi, được tạo ra thông qua một thứ ngôn ngữ mang khả năng tiết lộ. Sau khi nắm được cách vận hành nền tảng của sự trần trụi trong mối quan hệ giữa cái tôi và ngôn ngữ, ta quay trở lại bề mặt của kinh nghiệm và đặt câu hỏi: Cơ thể đã đạt được quyền năng tiết lộ cái tôi bằng cách nào, và nó bộc lộ ta ra sao?
Phần III: Chúng ta được phơi bày như thế nào
Trải nghiệm phổ biến nhất về sự trần trụi liên quan đến việc phơi bày cơ thể. Ngày nay, cơ thể được xem như một dấu hiệu mạnh mẽ, đầy quyền năng tiết lộ. Nó là một trong những tín hiệu then chốt phơi bày quá nhiều về bản thân ta, và chính vì vậy, nó cần được che giấu. Cần lưu ý rằng hành động phơi bày cơ thể không mang nội dung hay khái niệm rõ ràng; nó không cung cấp cho ta một hệ quy chiếu khái niệm để đánh giá phẩm chất của bản thể người khác, mà thay vào đó, nó tỏa ra ý nghĩa một cách trừu tượng - tương tự như nhạc không lời hay nghệ thuật trừu tượng - và ta chỉ có thể diễn giải thông qua các khái niệm đi kèm. Đừng ngần ngại: những bộ phận trên cơ thể gây ra cảm giác phơi bày mạnh mẽ nhất chính là âm đạo, dương vật, đầu vú và hậu môn. Nhưng rốt cuộc thì những bộ phận này tiết lộ điều gì về ta? Chúng có thể cho phép người khác nhanh chóng tiếp cận bản thể ta và tạo ra khoảnh khắc phơi bày hoàn toàn bằng cách nào?
Tương tự như toàn bộ cơ thể, những bộ phận này có thể được gọi là các dấu hiệu phi khái niệm - chúng không truyền đạt thông qua khái niệm, mà tỏa ra ý nghĩa về chúng ta đến người khác. Chúng cũng là những cửa ngõ sinh lý, có chức năng trung gian giữa bên trong và bên ngoài cơ thể, bài tiết các chất từ nội tại ra môi trường bên ngoài.
Chính vai trò cửa ngõ sinh lý này cho thấy mối liên hệ với nội tại cơ thể, và do đó, việc nhìn thấy các bộ phận này khiến người ta có cảm giác như được tiếp cận phần “bên trong” về mặt sinh lý của người khác. Thông qua các tiến trình văn hóa, mối quan hệ bên trong–bên ngoài về mặt sinh lý này được phủ lên nhiều lớp nghĩa bổ sung. Tôi cho rằng trong bối cảnh văn hóa của chúng ta, “bên trong” sinh lý đã trở thành biểu tượng cho toàn bộ bản ngã tâm linh–tinh thần. Hệ quả là, việc nhìn thấy những bộ phận này được hiểu như là đang nhìn thấu suốt vào bên trong người khác một cách tâm linh–tinh thần, và từ đó cảm nhận được toàn bộ con người của họ.
Sự chuyển hóa này mang ý nghĩa quan trọng vì nó làm thay đổi căn bản cách ta tiếp cận người khác. Thay vì một quá trình dần dần để thấu hiểu cái tôi bên trong của ai đó - tăng dần sự thân mật với nhau - thì việc phơi bày các "ngưỡng" cơ thể này lại tạo ra cảm giác như thể ta đã bị phơi bày trọn vẹn gần như tức thì. Hành động đóng và mở những khu vực cơ thể này đã co cụm quá trình hé lộ từ từ thành một khoảnh khắc phơi bày hoàn toàn. Qua đó, một thực trạng nhị nguyên cứng nhắc đã thay thế cho quá trình gần gũi tự nhiên: hoặc là sự phơi bày và cởi mở hoàn toàn, hoặc là sự che giấu và khép kín tuyệt đối.
Do cảm giác về sự thù địch của thế giới bên ngoài và cảm giác dễ bị tổn thương bên trong, về mặt văn hoá, chúng ta được "lập trình" để che giấu những phần cơ thể này - trừ khi đang ở trong những hoàn cảnh được kiểm soát chặt chẽ.
Tuy nhiên, cần làm rõ rằng: khả năng khơi gợi cảm giác khỏa thân từ những vùng cơ thể này không phải là điều bẩm sinh hay "tự nhiên". Việc chúng được xem như ranh giới cho sự phơi bày bản thân không nhất thiết đồng nghĩa với việc ta phải tự bộc lộ bản thân hay thu hẹp khoảng cách với nhau. Thay vào đó, ý nghĩa và chức năng ấy của chúng là kết quả của quá trình tích lũy trong một bối cảnh văn hóa - lịch sử cụ thể. Lý do vì sao những vùng này lại mang sức nặng biểu tượng như vậy là vấn đề phức tạp và đa chiều, bắt nguồn từ các tiến trình lịch sử mà bài viết này không thể phân tích trọn vẹn.
Cũng có những nhân tố sinh học khác góp phần làm cho các bộ phận cơ thể này trở nên “lộ liễu” hơn, nhưng những nhân tố đó cũng không đủ để khẳng định rằng đây là các vùng “phổ quát” của sự trần trụi. Một nhân tố sinh học đáng lưu ý là những vùng này biểu lộ sự kích thích tình dục rõ rệt hơn các vùng khác, khiến chúng dễ gợi dục hoặc dễ gây liên tưởng tới tình dục, và vì vậy, theo một cách rất cơ bản, chúng mang tính chất tiết lộ tâm lý. Điều này dẫn đến hệ quả là con người có xu hướng che đậy các vùng đó để ngăn người khác nhận ra sự kích thích nếu sự kích thích ấy không được đáp lại hoặc bị cho là không phù hợp. Tuy nhiên, chức năng “tiết lộ sự hưng phấn” này cũng không đủ để chứng minh rằng các bộ phận đó mang tính trần trụi một cách phổ quát. Nếu định nghĩa theo hướng tự nhiên luận như vậy là đúng, thì trước hết, chúng ta phải thấy những vùng cơ thể này luôn được che đậy trong mọi nền văn hóa - điều mà thực tế rất rõ là không đúng (chúng ta sẽ bàn sâu hơn về tính phụ thuộc vào bối cảnh lịch sử - văn hóa của sự trần trụi ở phần cuối bài viết này). Thứ hai, theo tiêu chí đó, miệng cũng sẽ phải được xếp vào nhóm các “vùng trần trụi”, vì miệng cũng đưa vật chất từ trong cơ thể ra ngoài - đó là ngôn ngữ, thứ vật chất đầy ý nghĩa và giàu khả năng biểu đạt nhất. Hơn nữa, miệng cũng là một khu vực nhạy cảm về mặt tình dục, có thể phản ứng với kích thích và tham gia vào nhiều hành vi tình dục. Tuy vậy, miệng lại không bị gán cho ý nghĩa tự bộc lộ bản thân như các vùng cơ thể mà ta đã bàn tới trước đó. Vậy nên, nếu những vùng nhạy cảm không thể được xác định một cách tự nhiên, thì câu hỏi đặt ra là: bằng cách nào một vùng cơ thể lại trở thành một dấu hiệu có sức tiết lộ sâu sắc về bản thân, khiến ta trở nên “trần trụi”?
Vì hiện chưa có bằng chứng nhân học hay lịch sử nào đủ chắc chắn để cho phép ta xây dựng “gia phả” của sự trần trụi - truy ngược lên từ những bộ phận cơ thể mang sức mạnh biểu trưng đó - nên ta sẽ làm điều ngược lại: tiến hành một thí nghiệm tư duy. Trong đó ta giả định tương lai nơi một bộ phận cơ thể mang sức mạnh ấy - nhưng hiện không có (ví dụ: miệng). Sau đó, hy vọng nó sẽ tiết lộ cho ta những điều kiện khiến một bộ phận cơ thể mang ý nghĩa phơi bày. Nếu may mắn, ta có thể đối chiếu những điều kiện này với các bộ phận hiện đã có sức mạnh ấy để xem liệu có thể đã từng tồn tại những hoàn cảnh tương đồng hay không.
Thí nghiệm tư duy như sau: hãy tưởng tượng đại dịch toàn cầu diễn ra kéo dài hơn nhiều, chết chóc hơn, và bằng chứng rằng virus lan truyền qua không khí - qua hơi thở - được toàn nhân loại thừa nhận. Trong một hoàn cảnh như vậy, khi con người sợ hãi vì sự sống còn của chính mình, việc đeo khẩu trang ở nơi công cộng có thể trở thành chuẩn mực tuyệt đối, gần như không có ngoại lệ. Khẩu trang chỉ được tháo ra ở nơi riêng tư, an toàn, và vì vậy, chỉ những ai bạn thật sự tin tưởng mới được nhìn thấy miệng bạn và ở gần bạn khi không đeo khẩu trang. Lúc ấy, hình ảnh của một cái miệng sẽ tích tụ những lớp nghĩa mới: nó sẽ biểu thị sự an toàn, sự gần gũi và niềm tin.
Tương tự như cơ quan sinh dục ngày nay vốn mang sức mạnh tự-phơi-bày, miệng - với vai trò sinh lý học như một “ngưỡng cửa” - cũng có thể chứa ý nghĩa tượng trưng, từ đó phân cực hóa liên tục giữa cái gần và cái xa, giữa cái tôi và người khác, thành một ranh giới rõ ràng giữa thế giới riêng tư bên trong và không gian công cộng bên ngoài. Nhìn thấy miệng người khác sẽ kéo ta vào trong thế giới riêng tư của họ. Đồng thời cũng có thể giả định rằng những tầng ý nghĩa khuếch đại liên quan đến riêng tư, sự tin tưởng và an toàn sẽ làm gia tăng tính gợi cảm của cái miệng - càng củng cố thêm ranh giới giữa riêng tư - công cộng nhờ vào đúng một hành động đơn thuần là nhìn thấy nó.
Điều này cho ta thấy gì về cách mà sự vật - trong trường hợp này là các bộ phận cơ thể - hình thành ý nghĩa? Rằng các ràng buộc từ môi trường dường như luôn đi trước và tạo điều kiện cho quá trình tạo nghĩa (semantification) - quá trình mà sự vật trở nên có ý nghĩa. Một khi điều gì đó được hiểu là “có ý nghĩa” và “có khả năng tiết lộ”, nó bắt đầu có một đời sống riêng, tiếp tục mang ý nghĩa ngay cả khi những ràng buộc môi trường ban đầu không còn tồn tại. Một khi các vật thể đã trở thành một phần của ngôn ngữ, chúng sẽ được sử dụng để tạo nghĩa, bất kể chức năng thực tế ban đầu của chúng là gì.
Dù tôi không phải là một nhà nhân học, ta hoàn toàn có thể hình dung một chuỗi sự kiện tương tự đã dẫn đến quá trình cơ thể con người trở thành một đối tượng mang nghĩa: các yếu tố khí hậu hay môi trường rộng lớn hơn có thể tạo ra nhu cầu thực tiễn phải che đậy cơ thể (để giữ ấm, chống nắng, chống côn trùng - và nhiều ví dụ khác). Cơ thể được che đậy, từ đó, sẽ dần mang các tầng nghĩa văn hóa liên quan đến việc khi nào, ở đâu và với ai thì phần cơ thể ấy được phép phơi bày. Đồng thời, nó cũng kéo theo các quan hệ quyền lực liên quan đến việc kiểm soát cơ thể trong các không gian công cộng và riêng tư.
Chừng nào cơ thể còn được nhìn nhận như một thực thể “mang nghĩa” - và được cố ý diễn giải như vậy - thì ý nghĩa và sức mạnh tiết lộ của nó vẫn sẽ tồn tại. Một sự vật chỉ có thể được "phi-nghĩa hóa" (de-semantified) thông qua chính ngôn ngữ; tức là, phải dùng ngôn ngữ để minh chứng rằng sự vật được phơi bày không tiết lộ điều gì ngoài những cảm giác trực tiếp tức thời, rằng giá trị đại diện của nó chỉ mang tính biểu tượng chứ không thực sự chứa đựng điều gì sâu xa. Ngôn ngữ phải được sử dụng để cho thấy rằng vật thể ấy không quy chiếu tới điều gì khác ngoài chính nó - qua đó làm loãng đi ý nghĩa và quyền năng tượng trưng của nó. Việc lần theo tiến trình này sẽ cho thấy rõ tính tùy cơ về mặt ngữ cảnh và văn hóa trong quá trình tạo nghĩa cho sự vật. Giờ đây, ta sẽ đi sâu hơn vào những hệ quả mà tính tùy cơ này mang lại.
Phần IV: Tính chất tùy cơ về khái niệm của sự trần trụi
Cuộc khảo cứu của chúng ta cho thấy rằng sự trần trụi phụ thuộc vào bản chất và mối quan hệ giữa những khái niệm nền tảng. Những khái niệm này không hề đồng nhất về mặt cấu trúc, chức năng hay quan hệ lẫn nhau giữa các nhóm người và nền văn hóa khác nhau. Sự khác biệt trong cách hình thành và vận hành của các khái niệm này có thể dẫn đến những hiểu biết và biểu hiện khác nhau về sự trần trụi - thậm chí trong một số trường hợp, sự trần trụi có thể hoàn toàn không tồn tại. Phần này sẽ nhìn vào cách mà sự biến thiên trong các khái niệm nền tảng có thể dẫn tới những hình thái khác nhau của sự trần trụi.
Trước đó, chúng ta đã xác lập rằng sự trần trụi phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các cặp khái niệm: cái tôi - người khác - thế giới, và bên trong - bên ngoài. Một số người có cách hiểu thẩm thấu hơn nhiều về mối tương quan giữa cái tôi với thế giới và người khác, từ đó họ cũng hình dung ranh giới giữa bên trong - bên ngoài và công - tư theo hướng ít rạch ròi hơn. Do sự trần trụi dựa trên sự tồn tại và quan hệ của những cặp khái niệm này, ta có thể giả định rằng trải nghiệm cũng như bản thân sự tồn tại của "trần trụi" sẽ thay đổi tùy theo mức độ (và thậm chí là sự hiện diện hay vắng mặt) của các khái niệm nền tảng đó trong nhận thức của mỗi người.
Nói cách khác, có thể tồn tại mối tương quan giữa việc một người có trải nghiệm (hoặc không trải nghiệm) sự trần trụi và niềm tin của họ về mức độ thẩm thấu giữa các cá nhân (quan hệ giữa cái tôi và người khác), cũng như giữa con người và môi trường (quan hệ giữa bên trong và bên ngoài). Hệ quả là, những ai không có cái nhìn cứng nhắc về ranh giới giữa cái tôi - thế giới - người khác - có thể sở hữu một quan niệm hoàn toàn khác - hoặc thậm chí không có khái niệm gì - về "trần trụi". Khi cái tôi và thế giới được xem là có sự kết nối, không có nhị nguyên cứng nhắc nào được hình thành, và cũng không tồn tại ranh giới rõ ràng giữa công khai và riêng tư. Do đó, các phần cơ thể sẽ không mang ý nghĩa như là những ngưỡng cửa tiết lộ cái tôi, và vì thế cũng không còn lý do để che giấu - vì đơn giản là không có gì cần phải giấu.
Ở tầng sâu hơn, sự liên kết thẩm thấu giữa cái tôi, thế giới và người khác có thể đi kèm với việc mỗi người sẽ tham dự trực tiếp hơn vào cái tôi của người khác. Bản sắc chung linh hoạt này có thể khiến cái tôi không còn bị xem là mong manh, yếu đuối hay dễ bị tổn thương - từ đó làm giảm bớt
động lực phải che giấu. Ngược lại, những ai xem cái tôi là một thực thể biệt lập và tách rời khỏi thế giới, khỏi người khác, có khả năng sẽ phát triển các cơ chế che giấu và phơi bày mạnh mẽ hơn - từ đó tạo ra điều kiện cho trải nghiệm then chốt của sự trần trụi: một sự tiếp cận đột ngột về phía cái tôi thông qua thứ ngôn ngữ mang sức mạnh bộc lộ mãnh liệt.
Cần lưu ý rằng phân tích mang tính suy đoán này chỉ là một giả thuyết, chưa dựa trên bằng chứng thực nghiệm. Do đó, chúng ta nên xem đây như những giả định ban đầu chứ không phải kết luận. Những khẳng định trên chỉ có thể được kiểm nghiệm thông qua nghiên cứu thực nghiệm với các nhóm người có những quan niệm khác nhau về các khái niệm nền tảng đó.
Ảnh: Bức Reclining Woman with Blond Hair, 1914 - Egon Schiele
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét