Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2021

VIETNAMESE FAMOUS ARTISTS - DANH HOẠ VIỆT NAM















MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa I (1925-1930)

Hội họa (8 người): Lê Văn ĐệNguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Lê Phổ, Công Văn Trung, George Khánh và Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) Lê Anh Phan. 

Rời khoá học:

- Nguyễn Tường Tam, Lê Anh Phan.

Kiến trúc (2 người): Nguyễn Xuân Phương, Lê Quang Tình

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa II (1926-1931)

Hội họa: Tô Ngọc Vân, Hồ Văn Lái. Đặng Trần Cốc, Đỗ Đức Thuận, Thang Trần Phềnh, Nguyễn Hữu Dậu, Nguyễn Văn Hồng, Ham Let (Lào)

Điêu khắc: Vũ Cao Đàm, Lê Tiến Phúc, Hamlet (Lào)

Rời khoá học:

- Hamlet (Lào)

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa III (1927-1932)

Hội họa: Trần Quang Trân, Lê Thị Lựu, Phạm Hữu Khánh, Nguyễn Hoà Thế. Vũ Tiến Chức, Vũ Đăng Bổn, Phạm Ngọc Khảm, Phạm Trần Trung, Nguyễn Cao Luyện, Nguyễn Đình Thân, Tín (thiếu Họ và chữ lót) 

06 Sinh viên đã tốt nghiệp:

Trần Quang Trân, Nguyễn Hoà Thế, Phạm Hữu Khánh, Vũ Tiến Chức, Vũ Đăng Bổn, Lê Thị Lựu

Nguyễn Cao Luyện - học hết Năm thứ Nhất, chuyển chuyên ngành Kiến trúc.


MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa IV (1928-1933)

Hội họa: Trương Thé Hoàn, Trần Văn Dư, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường, Đan Hoài Ngọc, Đoàn Triều Quế, Lưu Đình Khải.

Rời khoá năm 1930: Trương Thế Hoàn, Nguyễn Gia Trí, Đoàn Triều Quế.

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa V (1929-1934)

Hội họa: Trần Bình Lộc, Phạm Hậu. Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Văn Long, Phạm Văn Thuận, Trương Đình Hiền, Nguyễn Văn Lăng, 

Điêu khắc:  Trần Ngọc Quyên.

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa VI (1930-1935)

Hội họa: Nguyên Khang, Lê Văn Ngoan, Ngô Thúc Dũng, Nguyễn Bá Hải, Trần Văn Minh, Vũ Đình Ngọc, Nguyễn Anh, Thimonier (Pháp). 

Điêu khắc: Đinh Khang, Trương Đình Ý

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa VII (1931-1936) 

Hội họa: Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí,  Lưu Văn Sìn, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Thuỳ Nhân, Vũ Đức Nhuận, Nguyễn Trung Bằng (chưa hoàn thành khoá học 05 năm)

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa VIII (1932-1937)

Hội họa: Lương Xuân Nhị, Đỗ Đình Hiệp, Nguyễn Văn Thâu, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Văn Khánh, Tôn Thất Đào, Lê Yên, Nguyễn Thị Nhung.

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XI (1933-1938)

Hội họa: Nguyễn Đức Nùng, Trịnh Hữu Ngọc, Nguyễn Văn Riêm, Phạm Thúc Chương, Nguyễn Văn Bái, Nguyễn Dung, Hoàng Lập Ngôn, Lê Văn HuêNguyễn Như Hoang. 

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa X (1934-1939)

Hội họa: Hậu Hinh (Lào), Vương Hữu Dũng, Nguyễn Văn Quế, Ù Văn An (Quê Gò Đen, Long An),  Nguyễn Văn Yên, Nguyễn Văn Mậu.

Điêu khắc: Phan Gia Giang

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XI (1936-1941)

Hội họa: Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Văn Tỵ, Bùi Trang Chước, Hoàng Tích Chù, Nguyễn An Trung, Trịnh Vân, Nguyễn Khắc Mẫn. 

Điêu khắc: Trần Văn Lâm, 

Nguyễn An Trung, Nguyễn Khắc Mẫn: chưa hoàn thành khóa học 05 năm.

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XII (1938-1943

Hội họa: Nguyễn Văn Bình, Tô Văn San, Nguyễn Văn Tiếp, Phan Xuân Thi, Nguyễn Văn An, Hồ Văn Thu, Đặng Quốc Hùng, Lê Văn Trung.

03 Sinh viên đã hoàn thành tốt nghiệp 05 năm:

- Nguyễn Văn Bình, Tô Văn San, Nguyễn Văn An.

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XIII (1939-1944)

Hội họa: Nguyễn Sỹ Ngọc, Huỳnh Văn Thuận, Trần Đình Thọ, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Văn Mười, Trần  Tấn Thanh, Võ Doãn Giáp, Nguyễn  Tấn Báu, Nguyễn Kỳ, Phạm Hậu. 

Điêu khắc: Nguyễn Thị Kim 

06 sinh viên trong tổng số 12 không hoàn thành khóa học 05 năm:

- Nguyễn Văn Mười, Trần  Tấn Thanh, Võ Doãn Giáp, Nguyễn  Tấn Báu, Nguyễn Kỳ, Phạm Hậu.

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XIV (1940-1945)

Hội họa: Nguyễn Sáng, Nguyễn Văn Liên, Phan Tài, Nguyễn Văn Quang, Suzy Monsarrat. 

Điêu khắc: Diệp Minh Châu 

03 sinh viên không hoàn thành khoá học 05 năm: 

- Phan Tài, Nguyễn Văn Quang, Suzy Monsarrat. 

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XV (1941-1954)

Ngày 9/3/1945 Cuộc đảo chính Nhật xảy ra, trường học đóng cửa

Hội họa: Huỳnh Văn GấmBùi Xuân Phái, Tạ Thúc Bình, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Dư Hồng, Nguyễn Bá Thuyết.

04 sinh viên tốt nghiệp:

Huỳnh Văn GấmNguyễn Tư Nghiêm, Tạ Thúc Bình, 

  Bùi Xuân Phái.

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XVI (1942-1945)

Ngày 9/3/1945 Cuộc đảo chính Nhật xảy ra, trường học đóng cửa

Hội họa: Võ Lăng, Đình Minh, Quang Phòng, Phan Thông, Lê Pha, Nguyễn Văn Thành, Cao Xuân Hùng, Trần Phúc Duyên, Josette Delselle (Pháp), Simone Hou (Hoa)

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XVII (1943-1945) 

Ngày 9/3/1945 Cuộc đảo chính Nhật xảy ra, trường học đóng cửa 

Hội họa: Mai Văn Hiến, Mai Văn Nam, Nguyễn Thọ, Đặng Thị Viêng Chân, Lê Thanh Đức, Thân Trọng Sự, Phạm Tăng, Đào Huy Ngọc, Yolande Saltet (Pháp), Marcel Courtial (Pháp), André Gironce (Pháp), Trương Trọng Minh.

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG Khóa XVIII (1944-1945

Khóa cuối cùng: Ngày 9/3/1945 Cuộc đảo chính Nhật xảy ra, trường học đóng cửa 

Hội họa: Phan Kế An, Dương Bích Liên, Nguyễn Văn Thiện, Tôn Đức Lương, Kim Đồng, Phan  Thị Thoa, Nguyễn Như Huân, Trần Quốc An, Hortense Vouillon (Pháp) Nguyễn Đình Dũng, Nguyễn Tiến Hoành.

Kết luận:

148 thí sinh trúng tuyển vào Trường Mỹ Thuật Đông Dương.

- Theo tài liệu chính thức ở Việt Nam, 128 sinh viên sẽ nhận đươc bằng tốt nghiệp, trong đó có 118 sinh viên chuyên ngành Hội họa và 10 sinh viên chuyên ngành điêu khắc. Chúng tôi cho rằng 97 sinh viên đã nhận được bằng tốt nghiệp cho cả hai chuyên ngành. 

Nhà sưu tập tranh Đông Dương Jean-François Hubert








































MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA I (1925-1930)
HỌA SĨ LÊ VĂN ĐỆ (1906-1966)
- Tốt nghiệp thủ khoa trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội năm 1930
- Cựu Sinh viên Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
- Môn sinh của Jeans Pierre Laurens
- Giải thưởng Phòng Nghệ sĩ Pháp quốc Paris (Salon des Artistes Français)
- Học bổng nghiên cứu tại Rome và Athènes
- Giám đốc Mỹ thuật về Á châu trong kỳ triển lãm Quốc tế báo chí công giáo tại Vatican 
  năm 1936
- Điều khiển công cuộc tổ chức Mỹ thuật của Tòa Thánh Vatican trong kỳ triển lãm Quốc tế 
  Paris năm 1937 
- Trưởng phái đoàn Nghệ sĩ Việt Nam kỳ Triển lãm Quốc tế Mỹ thuật công giáo Vatican 
  năm 1950 tại Roma trong dịp năm Thánh.
Có tác phẩm trưng bày :
- Tại Viện bảo tàng Luxembourg ở Paris : "Trong gia đình" (En famille), sơn dầu, năm 1933

 Khóa I Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1925-1930) Từ trái sang Lê Phổ (1907-2001), Mai Trung Thứ (1906-1980), Georges Khánh, Nguyễn Phan Chánh (1892 – 1984), Công Văn Trung (1907-2003), Lê Văn Đệ (1906 – 1966). Hiệu trưởng Victor Tardieu (1870-1937)
Bức "Ba cậu bé" được bán với giá 500.000 HKD trong đợt đấu giá tại sàn Sotheby

Lê Văn Đệ (1906-1966) -  Nắng hè, vẽ năm 1954 tại Hà Nội


Lê Văn Đệ (1906-1966) - Đôi bờ sông Hồng (Bords de river Fleuve Rouge) 1930

Lê Văn Đệ (1906-1966) En famille, daté 1933, huile sur toile. 179 x 225 cm. Exposé au Salon des artistes française  en 1933, Fonds national d' art contemporain, Inv. 13339
Centre national des arts plastiques. Dépôt au musée des Années 30
Fonds Du fleuve Rouge au Mékong : Visions du Việt Nam
Copyright DR/CNAP/ photo Y. Chenot, Paris: p. 87

(tư liệu do Madame Loan de Fontbrune cung cấp)

https://hoasivietnam.wordpress.com/tham-kh%E1%BA%A3o/le-van-de/tieu-su-le-van-de/
Trong lịch sữ mỹ thuật Việt Nam, Lê Văn Đệ được nhắc đến như một nghệ sĩ bậc thầy, tiêu biểu cho xu hướng cổ điển và tân cổ điển Việt Nam. Sinh trong một gia đình nhà nho ở huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, thân sinh là Lê Quang Hòe, cai tổng Minh Đạt, hàm Tri huyện. Ông là con thứ 10 trong số 13 anh chị em. Lúc nhỏ, học ở trường tiểu học ở quê nhà, sau lên học ở Trường Tabert, Sài Gòn.Ngay từ thời còn ngồi trên ghế nhà trường trung học, ông đã được bạn bè ngợi ca về tài vẽ nhanh và đẹp. Năm 1925, sau khi tốt nghiệp trung học, ông thi vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Hà Nội. Cùng với Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tường Tam, Lê An Phan… ông trúng tuyển trong số 10 người, trong tổng số 400 thí sinh dự thi. Trong những năm theo học ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật, ông luôn được xếp vào hạng sinh viên xuất sắc của trường và đỗ đầu trong kỳ thi tốt nghiệp.
Năm 1931, ông được một học bổng sang Pháp học tại Trường Mỹ thuật Paris, dưới sự hướng dẫn của giáo sư J.Pierre Laurence vẽ tranh sơn dầu. Trong những năm học tại Paris, nhiều tác phẩm của ông đã gây được sự chú ý trong giới nghệ thuật tại thủ đô ánh sáng này và ông đã đoạt giải thưởng hội họa do Hội Nghệ sĩ quốc gia Pháp tổ chức. Với thành tích rực rỡ này, ông được nhận tiếp một học bổng đi tu nghiệp thêm về hội họa tại Ý và Hy Lạp.
Năm 1933, tranh ông được chọn triển lãm tại phòng số 1 – một gian phòng dành cho những tài năng xuất sắc chọn từ 5.000 họa sĩ các nước. Có hơn 40 tờ báo Pháp lúc bấy giờ đã đề cập đến tác phẩm của ông (theo Đông Dương tuần báo). Trong cuộc triển lãm Nghệ sĩ quốc gia Pháp năm 1934, Bộ Văn hóa Pháp đã chọn mua ngay một bức tranh Trong gia đình của ông để treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg.
Năm 1936, tại một cuộc triển lãm tranh do tổ chức báo chí Công giáo bảo trợ tại Roma, có sự tham gia của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng của 30 quốc gia trên thế giới, trong số đó có nhà danh họa Bouleau (Pháp), tác phẩm của Lê Văn Đệ được tặng giải nhất. Do đó, ông được mời phụ trách một nhóm 11 kỹ sư và 20 họa sĩ làm nhiệm vụ vẽ, chạm trổ, trang hoàng trong điện Vatican. Công trình do ông chỉ đạo thực hiện đã được báo chí Ý và nhiều nước đánh giá cao.
Năm 1938, ông trở về nước, vừa sáng tác vừa tiếp tục nghiên cứu hội họa dân tộc và các nền hội họa phương Đông. Bức tranh Thiếu nữ ngủ ngày của ông là một tác phẩm nổi tiếng thời bấy giờ. Công lao lớn nhất của Lê Văn Đệ là đã sáng lập ra Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn, làm cho việc giảng dạy và đào tạo cán bộ mỹ thuật ở miền Nam được nâng cao và phong phú hơn. Năm 1954, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định thành lập, ông được cử làm Giám đốc đầu tiên của trường. Tác phẩm của ông thiên về khuynh hướng cổ điển và tân cổ điển, mặc dù ông nắm khá chắc kỹ thuật và có kiến thức uyên bác về khuynh hướng mỹ thuật hiện đại của châu Âu.
Ông say mê nghiên cứu thủ ấn họa của Nhật Bản và các trường phái hội họa nguyên thủy châu Âu, nhưng sở trường nhất của ông vẫn là tranh lụa, tranh sơn dầu và bích họa. Trong kỹ thuật tranh lụa, ông đã có những tìm tòi độc đáo như dùng màu sắc thiên nhiên thay thế cho màu hóa học, để làm tăng thêm chất hiện thực và vẻ mềm mại của loại tranh này.
Đánh giá về ông, giới họa sĩ cho rằng hai cố họa sĩ đàn anh xuất thân từ Trường Mỹ thuật Đông Dương đã đem lại vinh dự cho Việt Nam là hai ông Lê Văn Đệ và Nguyễn Gia Trí.
Nhiều tác phẩm của ông hiện được lưu giữ tại các bảo tàng một số nước châu Âu như: bức Trong gia đình (sơn dầu), 1934 – Viện Bảo tàng Luxemburg ở Paris, bức Đức Mẹ và bức Bà Thánh Madeleine dưới chân thập giá – Viện Bảo tàng Mỹ thuật giáo sĩ thừa sai Vatican, bức Mẹ và con – Viện Bảo tàng Mỹ thuật Aix La Chapelle…
Là một người bình dị, thích cái đẹp thôn dã, giàu lòng vị tha, ngoài chức vụ Giám đốc Trường Mỹ thuật, ông Đệ lúc sinh thời còn là Phó hội trưởng Hội hoa kiểng Việt Nam – một ngành có liên quan nhiều đến mỹ thuật như kiểng bonsai, hòn non bộ và vườn cảnh. Ông từ trần ngày 16-3-1966 tại Sài Gòn.
“Trong cuộc đời và trong cả hội họa cũng vậy, rất có thể anh bỏ qua không cần Thượng Đế, nhưng anh, kẻ khổ đau, anh không thể bỏ qua không cần tới một điều cao hơn: chính là đời anh, quyền năng sáng tạo.” Đó là câu nói của danh họa Vincent VanGogh mà Giáo sư họa sĩ Lê văn Đệ thường nói với các học sinh trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định ngày xưa.
Họa sĩ Lê văn Đệ (24/8/1906-16/3/1966) sinh tại Mỏ Cày, Bến Tre, trong một gia đình nhà nho. Thân sinh là cụ Lê Quang Hòe. Gia đình có 13 người con, Lê văn Đệ là con thứ mười nên ở nhà có tên là Dix (Mười). Học trung học tại trường Taberd Sài Gòn rồi thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương Hà Nội, năm 1925. Ông học với giáo sư họa sĩ người Pháp Victor Tardieu và Joseph Inguivaberty. Các bạn cùng thời với ông sau này đều nổi tiếng, như họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn… Sau 5 năm theo học, ông đậu thủ khoa năm 1930, khóa I Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, và được học bổng du học Pháp.
Thời gian này ông đã tạo được điểm son trong lịch sử mỹ thuật VN: Hội Nghệ sĩ Quốc gia Pháp, tại Paris ngày 1/5/1932 tổ chức cuộc triển lãm tranh, tượng; ông đoạt giải nhì với ba tác phẩm Mụ Thầy BóiBến Ga Monparnass, vàNgười Đàn Bà Cài Đầu.
Trong những năm học tại Paris, tác phẩm của ông luôn gây được sự chú ý tại thủ đô Ánh Sáng. Với thành tích rực rỡ này ông được nhận thêm học bổng tu nghiệp tại Ý và Hy Lạp.
Theo Đông Dương Tuần báo, vào năm 1934 , có hơn 40 tờ báo Pháp đề cập đến tác phẩm của ông. Ông được Bộ Văn hóa Pháp chọn mua bức tranh Trong Gia Đình, và được treo trang trọng ở Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg.
Năm 1936, Tổ chức Báo chí Công giáo bảo trợ tại Rôma mở cuộc triển lãm tranh, tượng, quy tụ nhiều nghệ sĩ nổi tiếng của 30 quốc gia trên thế giới: tác phẩm của ông đoạt giải nhất.
Sau đó ông được mời phụ trách trang trí trong điện VATICAN và được ban thưởng Giáo Hoàng Bội Tinh, đây là một vinh dự cho dân tộc Việt Nam. Công trình do ông chỉ đạo thực hiện đã được báo chí Ý, Pháp, và nhiều nước trên thế giới đánh giá cao về chất lượng, tuy số lượng không nhiều. Đa phần tác phẩm của ông nằm trong các sưu tập ở bảo tàng Pháp, Ý, và một số tranh chân dung các chức sắc trong tòa Thánh Vatican như: chân dung Đức Giáo Hoàng PIO XI, chân dung Đức Hồng Y Verdier, chân dung các thiếu nữ Ý, Pháp và một số tranh tôn giáo: Đức Mẹ Từ Bi, thánh Madeleine dưới chân Thập Giá (bức này được Viện bảo tàng Mỹ thuật giáo sĩ thừa sai Vatican mua), Mẹ và Con (Viện bảo tàng Mỹ thuật Aix Lachapelle đặt mua)
Năm 1936, ông được Đức cha Celso-Costantins, Thư ký Bộ Truyền giáo Vatican rửa tội với tên thánh Celso-Léon Lê văn Đệ. Với bản chất là người dân Nam Bộ, mộc mạc, bình dị, thích cái đẹp thôn dã của quê hương, nên ông quyết định trở về nước sau gần 10 năm học tập, nghiên cứu, sáng tác và nổi danh ở Châu Âu.
Thời gian về nước là giai đoạn ông hoàn thiện kỹ thuật vẽ tranh lụa, phối hợp nền hội họa Thủy Mặc nghìn năm của Trung Quốc, với bố cục và tỷ lệ vàng của các họa sĩ thời phục hưng ở Châu Âu, sáng tạo ra nền hội họa tranh lụa truyền thống VN. Bản chất lụa Việt Nam, là loại lụa tơ tằm, có gân, thớ lụa không mịn và đều như lụa Trung Quốc. Phần lớn họa sĩ miền Bắc dùng lụa Hà Đông, ở miền Nam dùng lụa Tư Cua ở Gia Định. Trước lúc vẽ, lụa được căng lên khung gỗ, và tẩy bằng chanh hoặc phèn chua đề phòng dán, mọt gặm nhấm.
Khi vẽ thì không vẽ theo lối công bút của Trung Quốc mà là nhuộm màu từng bước, mỗi lần vẽ xong phải rửa cho cặn màu trôi đi, sau đó lại nhuộm thêm cho đến khi thấy độ màu ổn định mới thôi. Một bức tranh lụa đẹp, ngoài nội dung, bố cục, màu sắc, phải thể hiện được sự óng ả của thớ lụa, chất lụa. Nếu vẽ rửa nhiều nước thì độ mướt của chất lụa sẽ giảm, chà cọ nhiều tơ lụa sẽ bị xù lông, hoặc mặt lụa bị lì, lụa không còn độ bám của màu nữa, lúc đó người vẽ phải thay lụa mới. Màu trắng trong tranh thường được chừa lại bằng nền lụa, ngoài nét ra, các mảng thường được dùng cọ bản để đánh màu cho tan đều, chuyển độ trung gian giữa nét và khối hòa quyện vào nhau. Chính vì thế, tranh của ông thường óng ả, mềm mại, thớ lụa rõ ràng, bố cục mạch lạc, quý phái, dễ tạo nên cảm giác có một lớp nước rất mỏng, trong trẻo, dịu dàng, đưa người thưởng ngoạn quên đi phần nào cái đau khổ của phận người, của một kiếp phù sinh.
Năm 1942, ông quy tụ các họa sĩ tài danh lúc bấy giờ, lập ra nhóm Nghệ thuật An Nam, tổ chức nhiều triển lãm gây tiếng vang lớn, với những tác phẩm đi vào lòng người như: bức tranh lụa Rèm ThưaMẫu Tử, … tại Hội chợ Triển lãm Mỹ thuật Quốc tế lần I ở vườn Tao Đàn Sài Gòn; bức Nắng Hè là một trong những bức tranh lụa nổi tiếng nhất vào những năm cuối đời ông; năm 1959 Sở Văn hóa Thông tin Hoa Kỳ đã in trang nhất, bìa lịch tết để tặng bạn đọc.
http://wanew.org/h%E1%BB%8Da-s%C4%A9/nhung-tac-pham-tieu-bieu-cua-hoa-si-le-van-de-1331845.html
Những tác phẩm tiêu biểu của Họa sĩ Lê Văn Đệ
Trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam, Lê Văn Đệ được nhắc đến như một nghệ sĩ bậc thầy, một họa sĩ tiêu biểu cho xu hướng cổ điển và tân cổ điển Việt Nam. Ông là người Á Đông đầu tiên trở thành hội viên Hội Nghệ sĩ quốc gia Pháp và ông cũng chính là người chịu trách nhiệm trang trí cho lễ đài tại Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Ngay từ thời còn ngồi trên ghế nhà trường trung học, ông đã được bạn bè ngợi ca về tài vẽ nhanh và đẹp. Năm 1925, sau khi tốt nghiệp trung học, ông thi vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Hà Nội và đỗ thủ khoa. Trong những năm theo học ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật, ông luôn được xếp vào hạng sinh viên xuất sắc của trường. Đến năm 1930, Lê Văn Đệ tốt nghiệp thủ khoa và được ghi nhận là họa sĩ sở trường về thể loại tranh lụa, tranh sơn dầu và bích họa.

Năm 1931, Lê Văn Đệ được học bổng của Hội SAMPIC sang học tại Trường Cao đẳng Quốc gia Mỹ thuật Pháp ở Thủ đô Paris. Trong thời gian học tại Paris, nhiều tác phẩm của ông đã gây được sự chú ý trong giới nghệ thuật.Năm 1933, ông đoạt được giải nhì cho hội họa do Hội Nghệ sĩ quốc gia Pháp tổ chức với 3 tác phẩm "Bà thầy bói", "Trên sân ga Montparnasse", "Thiếu nữ điểm trang"Tranh ông được chọn triển lãm tại phòng số 1 - một gian phòng dành cho những tài năng xuất sắc chọn từ 5.000 họa sĩ các nước. Có hơn 40 tờ báo Pháp lúc bấy giờ đã đề cập đến tác phẩm của ông (theo Đông Dương tuần báo). Trong cuộc triển lãm Nghệ sĩ quốc gia Pháp năm 1934, Bộ Văn hóa Pháp đã chọn mua ngay một bức tranh "Trong gia đình" của ông để treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg. 



Ngoài tranh sơn dầu, ông năng sáng tác tranh lụa hơn (dù đến nay, có lẽ do đặc điểm chất liệu nên những bức này còn lại rất ít). Giới nghiên cứu mỹ thuật cho rằng, tranh lụa của Lê Văn Đệ óng chuốt, đài các, là một sự bổ sung cần thiết cho phần khuyết thiếu của tranh lụa Nguyễn Phan Chánh. Là người am tường văn hóa phương Đông lẫn văn hóa phương Tây, trong cuộc sống đời thường, họa sĩ Lê Văn Đệ nghiêng về sự dân dã. Trong kỹ thuật tranh lụa, ông đã có những tìm tòi độc đáo như dùng màu sắc thiên nhiên thay thế cho màu hóa học, để làm tăng thêm chất hiện thực và vẻ mềm mại của loại tranh này. Khi vẽ thì không vẽ theo lối công bút của Trung Quốc mà là nhuộm màu từng bước, mỗi lần vẽ xong phải rửa cho cặn màu trôi đi, sau đó lại nhuộm thêm cho đến khi thấy độ màu ổn định mới thôi. Nếu vẽ rửa nhiều nước thì độ mướt của chất lụa sẽ giảm, chà cọ nhiều tơ lụa sẽ bị xù lông, hoặc mặt lụa bị lì, lụa không còn độ bám của màu nữa, lúc đó người vẽ phải thay lụa mới. Chính vì thế, tranh của ông thường óng ả, mềm mại, thớ lụa rõ ràng, bố cục mạch lạc, quý phái, dễ tạo nên cảm giác có một lớp nước rất mỏng, trong trẻo, dịu dàng, đưa người thưởng ngoạn quên đi phần nào cái đau khổ của phận người, của một kiếp phù sinh.






Tô Ngọc Vân (1906-1954), diplômé en 1931 de l’EBAI, dirigera l’école à partir de 1945. Pendant la guerre d’Indochine (1946-1954), l’école deviendra École des Beaux-Arts du Việt Bắc. La pénurie de matériel est constante dans cette école de la résistance. De petits dessins évoquent la vie des soldats. La peinture sur laque et l’estampe sont favorisées car les techniques sont traditionnelles et la matière première disponible. Tô Ngọc Vân sera tué en 1954 lors de la bataille de Điện Biên Phủ.
Trần Văn Cẩn (1910-1994), diplômé de l’EBAI en 1936, prendra la relève de Tô Ngọc Vân et dirigera l’École rétablie à Hanoï de 1954 à 1964. Tô Ngọc Vân et Trần Văn Cẩn embrassent la cause indépendantiste vietnamienne et accueillent la nouvelle idéologie du réalisme socialiste imposée par le Parti. Les thèmes doivent désormais montrer des figures héroïques choisies parmi les paysans, les soldats ou les ouvriers. La frêle jeune fille au regard perdu dans ses rêveries disparait.
Nguyễn Phan Chánh (1892-1984), diplômé de l’EBAI en 1930, s’inspire du monde rural et privilégie la peinture sur soie. Son œuvre se caractérise par une tonalité ocre et l’application de la couleur en larges aplats. Contrairement à Tô Ngọc Vân et Trần Văn Cẩn, il ne change pas de style avec l’avènement de la norme du réalisme socialiste. Dès l’époque indochinoise, ses scènes de genre s’attachent à dépeindre sobrement des gens simples. Cela lui permettra de traverser les années de troubles et de devenir l’un des peintres vietnamiens les plus prisés.
Diệp Minh Châu (1919-2002) montera du Sud vers le Nord en 1945 pour rejoindre la résistance anti-française. En 1950, il passe six mois auprès du président Hồ Chí Minh qu’il met en scène dans plusieurs huiles sur toile. Les portraits d’Hồ Chí Minh sont un sujet largement traité par les artistes du Việt Bắc.
Nguyễn Gia Trí (1908-1993), diplômé de l’EBAI, est considéré comme le maître de la peinture à la laque, un genre pictural nouveau, né dans les années 1930, synthèse de l’ornementation artisanale à la laque avec la peinture de chevalet à l’occidentale. Nguyễn Gia Trí quitte Hanoï en 1954, lors de la partition du Vietnam, pour se réfugier au Sud, en République du Vietnam.
Lê Văn Đệ (1906-1966) fuira également le régime communiste en 1954 et fondera l’École des Beaux-Arts de Saigon. Au sud, le style des artistes et leurs thèmes prolongent l’époque indochinoise : les scènes lumineuses dépeignent encore la légèreté et la joie de vivre
.

Désenchantement : les quatre piliers «Nghiêm – Liên – Sáng – Phái».

 Certains artistes ont été reconnus officiellement comme majeurs et se sont vus attribués le titre de «pilier», en référence aux «quatre piliers qui soutiennent la maison», une manière de désigner les quatre plus importants conseillers à la cour, traditionnellement. Nguyễn Tư Nghiêm (1922-2016), Dương Bích Liên (1924-1988), Nguyễn Sáng (1923-1988) et Bùi Xuân Phái (1920-1988) sont les quatre artistes de la seconde génération d’artistes vietnamiens qui incarnent le mieux le désenchantement qui gagnent certains artistes ayant rejeté l’idéologie du réalisme socialiste, après l’avoir embrassé dans leur jeunesse. On doit à Nguyễn Sáng de grands panneaux laqués où il exalte avec ferveur les soldats, les ouvriers et les paysans. Ces artistes patriotes souffrent pourtant de plus en plus du carcan imposé par le gouvernement. Leur créativité s’essouffle à respecter les nombreux interdits. Dans les années cinquante, un vent de contestation se lève parmi les intellectuels et les artistes. Mais il sera réprimé. Les artistes se retirent de l’appareil d’état et perdent tout statut. Ils vivent chichement, soutenus par leurs amis, peignant sur de mauvais cartons. Bùi Xuân Phái est connu pour ses figures d’acteurs et ses rues de Hanoï désertes, peintes avec une matière rugueuse formant des empâtements. Dương Bích Liên peint essentiellement des figures féminines, de même que Nguyễn Sáng, célèbre également pour ses chats vigoureusement brossés à l’aide d’un épais cerne noir. Ces trois amis mourront tous la même année. Nguyễn Tư Nghiêmlui, tout en délaissant le réalisme socialiste, ne cède pas au désespoir. Il propose des thèmes inspirés des légendes populaires traitées dans un style cubiste fait de blocs structurés par les lignes internes.



MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA I (1925-1930)
HỌA SĨ LÊ PHỔ (1907-2001)

Lê Phổ: Những đóa hoa hái từ một giấc chiêm bao 
                                                      Ðinh Cường
Những năm gần đây tranh Lê Phổ ngày càng cao giá tại Christie và Sotheby, hai nơi bán đấu giá tranh nổi tiếng tại Singapore và Hong Kong. Gần đây nhất, tháng 4/2008, bức Vierge a L’Enfant (Đức Mẹ với Hài đồng) lụa 55,1 x 46 cm bán HK$ 2,407,500 (US$ 309,192). Tuy giá tranh như vậy vẫn còn rất thấp so với các hoạ sĩ danh tiếng của Indonesia, Ấn Độ…nhưng tranh Lê Phổ được các nhà sưu tập ưu ái nhất.
Waldemar George, nhà nghiên cứu phê bình nghệ thuật người Pháp đã viết nhiều sách về Picasso, Chagall, Matisse, Modigliani …Năm 1970, trong tập sách mỏng Le-Pho với bài mở đầu: Le Pho “Le divin peintre” - Cây cọ thần diệu - đã phân tích khá kỹ các thời kỳ sáng tác cuả Lê Phổ, khởi đầu từ năm 1931 “một chú Ba lạc giữa kinh đô ánh sáng”, từ tranh lụa đến tranh sơn dầu những năm về sau. Được gọi là bậc thầy đi từ hội hoạ Ấn Tượng (impressionisme) qua Hậu Ấn Tượng (post impressionisme).
Năm 1995 nhân chuyến đi Pháp để nghiên cứu mỹ thuật hiện đại phương Tây sau gần một thế kỷ phát triển, họa sĩ Trịnh Cung đã có dịp gặp các họa sĩ Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Võ Lăng, Phạm Tăng, Thái Tuấn. Đã nhận xét về Lê Phổ “…Trong dòng thác nghệ thuật thời ấy luôn bùng lên những đợt sóng dữ dội, Lê Phổ đã không bị chìm lấp, mà trái lại các tác phẩm hội họa của ông vừa thể hiện một trình độ sử dụng sơn dầu hết sức điêu luyện, đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật ấn tượng - làm bừng thức một thiên nhiên lung linh hoa lá, vừa gợi cảm một thế giới xa vắng đầy yêu thương mà người họa sĩ đã đánh mất trong những ngày tháng rời xa quê nhà…” (Về những họa sĩ Việt Nam nổi tiếng ở hải ngoại. Sánh bước cùng Chagall, Van Dongen. Đăc san 30/4, Tuổi Trẻ. 1995)

Lê Phổ sinh ngày 2/8/1907 tại Hà Đông, cha ông là Lê Hoan, kinh sứ Bắc Kỳ thời vua Hàm Nghi trong thời gian ngắn 1884-1885. Mất ngày 12 tháng 12 năm 2001 tại Paris.
Ông theo học khóa đầu tiên (1925-1930) trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, gồm Lê Văn Đệ, Mai Trung Thứ (sau này ký tên Mai Thứ), Nguyễn Phan Chánh, George Khánh, Công Văn Trung, Nguyễn Tường Tam và Lê Ang Phan. Nguyễn Tường Tam (nhà văn Nhất Linh) và Lê Ang Phan sau bỏ không học tiếp. Bảy người cùng khóa, nay chỉ họa sĩ Công Văn Trung còn sống ở Hà nội. Nhắc đến trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương là nhắc đến công sáng lập của Victor Tardieu (1) đã theo học tại xưởng vẽ Gustave Moreau - trường Mỹ thuật Paris -1889 đến 1891, cùng lớp Matisse, Rouault…
Năm 1920 ông được giải thưởng Đông Dương (Prix de l’Indochine) và học bổng sang Đông Dương nghiên cứu trong vòng một năm. Ông đã gặp họa sĩ Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ (1890-1973) sớm nhất ở Hà Nội. Cơ duyên này giúp ông rất nhiều trong việc vận động thành lập trường Mỹ thuật Đông Dương và kết quả, nghị định thành lập trường đã được Thống đốc Toàn quyền Martial-Henri Merlin ký ngày 27 tháng 10 năm 1924, hiệu trưởng là Victor Tardieu. Giáo sư ảnh hưởng nhiều đến phong cách sáng tác tranh sơn dầu là Joseph Inguimberty (1896-1971), ông dạy từ năm khởi đầu 1925 cho đến khi trường giải thể 1945 cùng hơn mười giáo sư giảng dạy người Pháp, có Alix Aymé rất giỏi về sơn mài…

Lê Phổ may mắn hơn nhiều bạn cùng khoá, một năm sau khi ra trường đã được làm phụ tá cho Tardieu qua Pháp dự hội chợ đấu xảo thuộc địa và năm sau đó, 1932, được học bổng qua Pháp học tiếp tại trường Mỹ thuật Paris. Một tầm nhìn mới được mở ra cùng ông, bức sơn dầu rất “trường phái Paris” vẽ phong cảnh Fiesole năm 1932 và sau đó biến chuyển qua nhiều giai đoạn …Ông đã đi một vòng Châu Âu, tiếp xúc với hội họa Phục Hưng ở Ý, thấy được những nét trùng hợp giữa hội họa cổ điển Tây Phương và hội họa cổ Trung Quốc.
Năm 1933 ông trở về làm giáo sư trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, năm 1934 sang Bắc Kinh tìm hiểu hội họa đời Tống đời Minh. Tranh ông là một kết liên giữa hai nền hội họa Đông - Tây mà ông đã dày công tìm hiểu. Giai đoạn sau cùng ông chịu ảnh hưởng không khí tranh Bonnard (2). Lê Phổ đã từng đến thăm Matisse tại Villa des Rêves, đã được Matisse mời xem tranh và giải thích cách vẽ. Đã là bạn của Foujita (3), họa sĩ gốc Nhật Bản nổi tiếng nhất những năm 1930, thời Paris Montparnasse với những tên tuổi lẫy lừng: Picasso, Chagall, Modigliani, Soutine, Matisse …
Ông đã triển lãm chung với Foujita nhiều lần tại Lyon, Avignon, Nice và Bordeaux những năm 1957, 1958. “Tay ấy phi thường (c’est un tipe formidable). Đó là một họa sĩ Nhật Bản duy nhất mà tôi gặp và thích. Foujita có những nét kỳ diệu để viền dessin và portrait. Từ lúc tôi đến Âu Châu, chưa thấy người nào vẽ hay hơn Foujita …’’ (Thụy Khuê - nói chuyện với họa sĩ Lê Phổ - Hợp Lưu số 10, tháng 4 và 5 1993)
Ông thực sự ở hẳn Paris kể từ năm 1936. Mười năm sau, gặp và thành hôn với Paulette Vaux, ký giả báo Time và Life, có hai con trai: Lê Kim, nhiếp ảnh, và Lê Tân, họa sĩ chuyên về thiết kế, trang trí.
Triển lãm cá nhân đầu tiên năm 1939, được các gallery chú ý, đặc biệt Gallery Romanet, năm 1941 đã tổ chức triển lãm tranh Lê Phổ và Mai Thứ tại Alger, phòng tranh bán hết. Từ năm 1964 cộng tác thường xuyên với Gallery Findlay ở Hoa Kỳ, triển lãm tại New York, Florida và Chicago. Ông đã có dịp viếng gia đình Barnes, bộ sưu tâp tranh nổi tiếng, thường tặng lại hoặc cho các viện bảo tàng mượn bày các tranh hiếm quý.


Riêng Lê Phổ cũng có ý định tặng cho Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội nhiều tranh “Bác có dự định cho Bảo tàng viện Hà Nội tranh của bác không? Có, Tôi đã dặn kỹ nhà tôi: nếu tôi mất đi, nhà tôi sẽ gửi cho Viện Bảo tàng Hà Nội khoảng 20 -30 bức. Bác dặn bác gái gửi khoảng 20-30 tranh cho Hà Nội? Gửi như thế nào? -Tức là biếu, là tặng Bảo tàng Hà Nội với điều kiện là phải làm việc đứng đắn.” (Thuỵ Khuê - nói chuyện với họa sĩ Lê Phổ - Hợp Lưu, số 10 tháng 4 &5 1993). Cho đến nay chuyện ấy vẫn chưa thành. Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội gần đây vẫn chưa giải toả nhiều thắc mắc của công chúng yêu nghệ thuật về chuyện bản chính hay bản sao của nhiều bức hiện đang trưng bày. Thậm chí tác phẩm sơn dầu nổi tiếng “Thiếu nữ bên hoa huệ” của Tô Ngọc Vân, vẫn chưa biết đích xác bản chính đang ở đâu.

Tranh Lê Phổ được trưng bày tại Musée d’Art Moderne, Paris. Musée d’Oklaoma (USA) và trong rất nhiều bộ sưu tập tư nhân trên thế giới. Rất nhiều người yêu chuộng tranh ông, vì ở đó là một bản màu đa sắc đầy lạc thú, là khúc hợp tấu giao hưởng những sắc vàng - ông thích nhất màu vàng chanh (jaune citron). Là sự tươi mát của thị giác. Đề tài chính của ông ít thay đổi: Một con thuyền trôi giữa đám sen, những thiếu nữ chập chờn trẩy hái trong khu vườn thượng giới rực rỡ. Cử chỉ khoan thai, trang nhã, dịu dàng, như đang bày yến tiệc trong không khí tươi mươi của muà Xuân. Những đoá hoa ông vẽ biến đổi một cách kỳ diệu, huy hoàng, đôi khi là những đoá hoa hái từ một giấc chiêm bao …
Và sau cùng là quan niệm của ông về hội họa: “Tôi vẽ làm sao cho người ta thích và treo lên tường. Với tôi, vẽ là hành hương vào nội tâm. Vẽ là giú một trái chín. Con đường dài lắm…”
ĐINH CƯỜNG
Virginia, 12.12.2009














































MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA I (1925-1930)
HỌA SĨ MAI TRUNG THỨ (1906-1980)
Mai Trung Thứ hay Mai Thứ (1906-1980) là một hoạ sĩ nổi tiếng của mỹ thuật hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ 20. Ông là sinh viên khóa I Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1925-1930).
Yêu đời, lãng tử là chất nghệ thuật trong các sáng tác của ông, là một phần phong cách của nghệ thuật tạo hình cận hiện đại Việt Nam, đậm đà tâm hồn Việt Nam. Ngoài ra ông còn là nhà nhiếp ảnh, quay phim. Ông có công sức rất lớn sưu tầm nhiều tư liệu quí giá về Chủ tịch Hồ Chí Minh và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 2014, tên họa sĩ Mai Trung Thứ đã được đặt cho một con phố tại phường Bạch Đằng, quận Hải An, Hải Phòng quê hương của ông.
  • Tên khai sinh Mai Trung Thứ ( Mai Thứ )
  • Ngày sinh 10 tháng 11, 1906 tại Hải Phòng
  • Ngày mất 10 tháng 10, 1980 tại Paris
  • Phong cách nghệ thuật Tranh sơn dầu, tranh lụa
  • Tác phẩm chính Mona Lisa, Trẻ con chơi, Vật, Vẽ phụ nữ, Trẻ em, Cuộc sống
  • Hoạt động khác Quay phim, chụp ảnh





























 











(Document de Madame Loan Sicre)



MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA I (1925-1930)
HỌA SĨ NGUYỄN PHAN CHÁNH (1892-1984)

Nguyễn Phan Chánh (1892-1984) là một trong những họa sĩ tiêu biểu cho nền hội họa Đông Dương. Ông được coi là người chiết trung phương pháp tạo hình phương Tây và họa pháp tranh lụa phương Đông và là người đầu tiên mang vinh quang về cho tranh lụa Việt Nam. Tên tuổi của ông luôn được những người say mê hội họa nhắc đến với một niềm cảm phục và sự trân trọng đặc biệt.










 Tác phẩm "Chơi ô ăn quan" được vẽ năm 1931 và có lẽ là tác phẩm nổi tiếng nhất và được nhiều

người biết đến nhất của Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh 



 Bức "Người bán gạo" của danh họa Nguyễn Phan Chánh được bán với giá 3,03 triệu HKD (hơn 8 tỷ VND)
do Christie’s International tổ chức ở Hồng Kông, được xem là giá bán kỷ lục của tranh do họa sĩ Việt Nam vẽ
 Tác phẩm “Người hát rong” được Nguyễn Phan Chánh vẽ năm 1929
 Bức “Hầu đồng” được vẽ năm 1931

 Tác phẩm "Vườn trẻ"
 
 Sáu năm sau ngày vợ mất, họa sỹ Nguyễn Phan Chánh đã vẽ bức tranh lụa “Cô hàng xén” từ những ký ức về người vợ yêu của mình  
 Bức hoạ "Em bé cho chim ăn" được vẽ năm 1931 là một trong những tác phẩm đặc sắc của hoạ sĩ diễn tả một em bé đang lớn, đang trở thành thiếu nữ, ngồi bên chiếc lồng chim, có lẽ ngụ ý về một tương lai gia thất sắp đến
 Tác phẩm "Cô gái hát ví dặm"

Tác phẩm "Bữa cơm ngày mùa thắng lợi"

(Tư liệu của Hội Mỹ thuật Việt Nam)

MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA I (1925-1930)
HỌA SĨ CÔNG VĂN TRUNG (1907-2003)

Họa sĩ Công Văn Trung (1907-2003) là một trong những sinh viên khóa I của Trường cao đẳng nghệ thuật Đông dương. Những tác phẩm tiêu biểu có ''Tháp chùa Bảo Minh'', ''Bình minh đất nước'', ''Mỏ Tĩnh Túc'', ''Hoa đại đỏ chùa Thầy''. Tác phẩm sơn khắc ''Phong cảnh Sài Sơn'' được Huy chương vàng ở triển lãm toàn quốc năm 1990 khi ông đã 83 tuổi
 Công Văn Trung - Hoa dại đỏ Chùa Thầy
 Công Văn Trung - Phong cảng Sài Sơn - Sơn khắc (Coromendel)
Công Văn Trung - Phong cảng Sài Sơn
(Tư liệu http://designs.vn)



MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA I (1925-1930)
HỌA SĨ NGUYỄN TƯỜNG TAM (1905 -1963)





































MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA II (1931-1936)
HỌA SĨ NGUYỄN GIA TRÍ (1908-1993)

Nguyễn Gia Trí (1908-1993) sinh tại tỉnh Hà Tây.Ông là sinh viên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1931-1936), ông được xem là người đi đầu trong việc chuyển những bức tranh sơn mài từ trang trí thành những tuyệt phẩm nghệ thuật và từ đó ông đã được mệnh danh là "Vua sơn mài". Sinh thời,Bùi Xuân Phái rất ngưỡng mộ tài năng và phẩm chất kiên dũng và xem ông như bậc đàn anh đáng kính nhất trong làng hội họa Việt Nam. 
Ông Nguyễn Gia Trí là một trong những họa sĩ nổi tiếng đi đầu trong việc tạo ra một khuynh hướng nghệ thuật mới cho Việt Nam, với những đường nét vẽ thanh lịch và những tư tưởng mới về nghệ thuật sơn mài. Ông phối hợp lối in khắc với những phương thức sơn mài mới, đồng thời áp dụng các nguyên tắc cấu trúc tranh vẽ phương Tây, để tạo nên những bức họa hiện đại mang đầy tính dân tộc. Những tác phẩm của ông có thể tìm thấy trong Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Việt Nam tại Hà Nội và Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật tại Sài Gòn. Tác phẩm của Nguyễn Gia Trí đã được chỉ định là Bảo Vật Quốc Gia. Vì thế, những tác phẩm của ông đã không được phép rời khỏi Việt Nam.
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí thường làm tranh không hết hợp đồng, hầu hết là những đại gia có máu mặt đặt tranh, đó là những tỷ phú Nam Phi, Nam Mỹ. Họ đến xin ông vẽ những tranh khổ lớn và không yêu cầu về nội dung hay hình thức nghệ thuật, tùy ông muốn và không có chuyện tham gia góp ý kiến vào tác phẩm của ông. Tranh ông bán đo bằng ca-rê (phân vuông, tranh kích thước càng lớn thì giá tiền cứ theo đó mà nhân lên). Ở VN các họa sĩ trong lịch sử Hội họa hiện đại có duy nhất danh họa Nguyễn Gia Trí bán tranh tính bằng ca-rê và luôn phải từ chối đơn đặt hàng của khách.Trường hợp này đúng với nguyên tắc : phải có khách hàng lớn mới có nghệ sĩ lớn.
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí lúc sinh thời đã có nguyện vọng giữ lại ba bức tranh : "để cho thế hệ mai sau nghiên cứu". Đó là 03 bức tranh sơn mài khổ lớn lưu tại Thư viện Quốc Gia TP Hồ Chí Minh mà Phu nhân PTT.Ngô Đình Nhu mua định tặng Nhật Hoàng, nhưng ông yêu cầu phải để lại trong nước. Những năm đỉnh cao của năng lực sáng tạo, tài chính của ông lên tới hàng nghìn cây vàng. Nhưng đến khi nhắm mắt, xuôi tay, ngoài vài tấm tranh cỡ nhỏ, tài sản của ông chẳng có gì đáng kể, tất cả đã được họa sĩ dành cho nghệ thuật. Tất cả đã được người nghệ sĩ Để gió cuốn đi.

(Tư liệu của Hs.Bùi Thanh Phương) 











NGUYỄN GIA TRÍ - Thiếu nữ bên hoa phù dung. 1944. Sơn mài. Hiện nay thuộc sưu tập của ông Bùi Quốc Chí, con trai của ông Đức Minh. Bức tranh này ông Đức Minh đã mua lại từ vợ của họa sĩ vẽ áo dài Le Mur - Nguyễn Cát Tường với giá hai mươi vạn đồng Đông Dương. Bà Đinh Thị Hợi - vợ ông Đức Minh là người đã trực tiếp cầm tiền đến trả.





Một Chân Dung Lớn Của Nền Mỹ Thuật Việt Nam Thế Kỷ XX: Nguyễn Gia Trí (1908 - 1993)

 HUỲNH HỮU ỦY
Trường Mỹ Thuật Đông Dương được thành lập năm 1924 ở Hà Nội, chỉ trong một thời gian ngắn chừng hơn mươi năm, đã đặt nền tảng cho một nền nghệ thuật mới hình thành và phát triển. Nếu Trường Mỹ Thuật Hà Nội không được thành lập thì có lẽ ngày nay Việt Nam vẫn chưa có một nền nghệ thuật hiện đại, và mỹ thuật Việt Nam vẫn bị chìm lấp, lẫn lộn với mỹ thuật Trung Hoa. Nguyễn Gia Trí vào học trường Mỹ Thuật Hà Nội khóa 5, nhưng bỏ học lở dở, sau đó dường như theo lời khuyến khích của họa sĩ Victor Tardieu, ông trở lại Trường, theo học khóa 7 cùng với các bạn đồng môn Lưu Văn Sìn, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Văn Tại, Vũ Đức Nhuận ... vào năm 1931. Chỉ vài năm sau đó, ông đã là một khuôn mặt nổi bật, đến độ trên đất Hà thành văn vật thời thập niên 40-50, đã có lời truyền tụng về tứ tượng trong nghề hội họa: nhất Trí, nhì Lâm, tam Vân, tứ Cẩn (Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, và Trần Văn Cẩn). (1)
Nguyễn Gia Trí với những phát hiện hoàn toàn mới mẻ về kỹ thuật sơn mài từ những năm đầu thập niên 30, lúc còn là sinh viên Trường Mỹ Thuật Đông Dương ở Hà Nội, vẫn tiếp tục những tìm kiếm và hoàn thiện thứ nghệ thuật đặc sắc này, đã tạo nên một tiếng nói có trọng lượng trong sinh hoạt nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại.
Thời kỳ tuổi trẻ đầy nồng nàn với đời sống, ông đam mê nghiên cứu và đưa kỹ thuật sơn mài đến cao điểm của nó, nghĩa là từ một thứ kỹ thuật thủ công đã hóa thân thành thế giới của cái đẹp với bao nhiêu điều kỳ diệu không tìm được ở nơi nào khác, ở chất liệu nào khác, óng ả, sâu thẳm, lộng lẫy mà rất trầm mặc. Trong cuộc triển lãm 1939 do Trường Mỹ Thuật Đông Dương tổ chức, các tác phẩm của Nguyễn Gia Trí gây được nhiều chú ý đặc biệt chưa từng thấy.

Qua cuộc bày tranh này, Tô Ngọc Vân đã có nhận xét:
"Cái lối sơn cổ của ta hào nhoáng, lòe loẹt, son giữa màu son, vàng chỉ có sắc vàng, trơ trẽn như anh nhà giàu phô của, vào Trường Mỹ Thuật đã dần dần biến thành mỹ công nhã nhặn mà vẫn rất quý giá. Vàng bạc, sơn son, sơn then, người ta chỉ dùng nguyên chất có chừng độ khi người ta xét thấy cần phải dùng đến cho toàn thể tấm sơn. Rồi cũng ngần ấy vật liệu đè lên nhau mài đi, mài lại, người ta chế ra được màu dìu dịu đỡ tầm thường. Đến cuộc thí nghiệm Nguyễn Gia Trí, lối sơn ta không còn là một mỹ nghệ nữa. Toát ra từ suy tư và tâm hồn người ấy, sơn mài đã được nâng lên thành loại mỹ thuật thượng đẳng. Người ta có thể tưởng tượng một "thầy sơn," chung quanh là mấy ông phó sơn giúp việc, chia nhau từng đoạn vẽ mà bôi sơn vào, bằng những màu đã tìm sẵn và đã ấn định cho chỗ nào rồi. Nghệ thuật Nguyễn Gia Trí không thế, nó là ý tưởng, cảm tính của Gia Trí đúc lại, một nét, một vết, một màu đều phải ở tay nghệ sĩ mà ra ... Trên những màu hồng nhợt biến hóa, những sắc nâu ngon thật là ngon, những vỏ trứng như đổi tất cả thể chất để thành quý vật, vài nét bạc, vài nét vàng sáng rọi, vung lên, rít lên như tiếng kêu sung sướng của xác thịt khi vào cực lạc.
Chàng nghệ sĩ ấy yêu tấm sơn, như ta có thể yêu một người đàn bà. Lúc âu yếm bằng những nét vuốt ve mềm mại, lúc dữ dội bằng năm bảy nét mạnh đập tung, cào cấu. Vạn vật đối với nghệ sĩ chỉ đáng yêu, có sắc và hình. Những màu hoen hoen đứng cạnh nhau, cân đối dung hòa một cách tuyệt khéo, đem lại cho người biết hưởng cảm giác bồn chồn rạo rực.
Mỗi tác phẩm Gia Trí mang tâm trạng của người tạo ra nó, nó cũng dồi dào linh động, phức tạp vì biến theo tâm trạng. Không một khuôn khổ, không một nếp nào có thể ngưng nó lại." (2) 
Vài năm sau, trên tạp chí Thanh Nghị, Tô Ngọc Vân kết luận thêm về Nguyễn Gia Trí: "Màu sắc ấy như ẩn hiện một chút gì huyền ảo đắm say nồng nàn, còn run rẩy trong bóng tối hòa với máu, một sức sống còn bế tắc, một linh hồn cương quyết đam mê, đang quằn quại vì muốn thoát nhanh ra ánh sáng." (3)
Trước những tấm tranh sau thời kỳ 1940 được gợi hứng từ không khí ưu phiền, mệt mỏi, trác táng, pha lẫn đôi chút phiêu bạt và say đắm của các cô gái giang hồ, Tô Ngọc Vân đã cảm thấy như thế và phần nào ông cũng là một tâm hồn đồng điệu của Nguyễn Gia Trí, chia sẻ được với thế giới của đường nét bay bướm, trữ tình, không chịu gò bó chật chội nên có lúc đã đi đến chỗ phá phách của một thứ cung cách cầu kỳ (maniériste), và màu sắc thì rất táo bạo trên đường đi tìm sự độc đáo hoàn toàn riêng cho mình.
Những năm ở Sài Gòn thực sự không có gì thay đổi lắm so với những bức tranh đầu tiên như Bên Hồ Gươm vẽ năm 1935, Chùa Thầy, Đền Trung Tự (1938), Chợ Bờ, Về Chợ, Khỏa Thân, Thiếu Nữ Và Hoa Phù Dung, Thiếu Nữ Bên Hồ Sen, Vườn Xuân,đến những bức mới trong thời kỳ này như Hoài Niệm Xứ Bắc, Chúa Giáng Sinh, Phục Thù, Sen Tàu, Địa Linh Hoán Tượng, Ba Vua.
Tuy nhiên, dễ nhận ngay là vào thời kỳ sau cùng này, ông đã đạt đến một sự điêu luyện toàn bích về kỹ thuật, hơi mất đi phần nào chút vụng dại duyên dáng trước đây, điển hình là hai bức khổ lớn 1.2m x 2.4m hiện vẫn còn bày tại Thư Viện Thành Phố Hồ Chí Minh. Hay nơi bức Ba Vua trong một kỳ triển lãm ở Đại Chủng Viện Cường Để năm 1971, có người tỉ mỉ đã đếm ra được 22 màu sắc trên tấm tranh này, không tản mạn, không rời rạc, mà hợp nhau lại rất nhất quán trong một cảnh cổ kính mà vẫn mới mẻ.
Thỉnh thoảng ông cũng đưa một chút tượng trưng và biểu tượng, đôi lúc lại thử bút cả trừu tượng vào sơn mài. Nguyễn Gia Trí vốn có tiếng tài hoa nơi những ký họa, phác thảo nên khi đưa những phác thảo tài tình này vào tranh sơn mài, với những ưu thế của chất liệu này, đã chinh phục được mọi người khắp nơi, bằng một hòa cảm sâu lắng bởi hình, sắc và chất vô cùng kỳ lạ. Một thế giới bí ẩn, dào dạt cảm xúc và đam mê nhưng được chế ngự tài tình dưới sự điều hòa của tri thức và trí tuệ.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại, có một dấu mốc đặc biệt là cuộc triển lãm Salon Unique 1943 mà tác phẩm của Nguyễn Gia Trí cũng là một đóng góp độc sáng ở cuộc trưng bày này. Có lẽ nhân đây, với những hồi tưởng đặc biệt về Nguyễn Gia Trí, chúng ta cũng nên nhớ lại đôi chút về Salon Unique 1943.
Năm 1945, Trường Mỹ Thuật Đông Dương phải đóng cửa, nhưng trước đó gần hai năm, cuộc triển lãm "Salon Unique 1943" được thực hiện, để lại một dấu vết lớn trong quá trình phát triển và hình thành nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại.
Với sự khởi xướng và bảo trợ đặc biệt của đô đốc Jean Decoux, Toàn quyền Đông Dương, triển lãm Salon Unique 1943 do chính phủ xứ Đông Dương tổ chức, mở cửa ở Hà Nội từ ngày 10 đến 20 tháng 12-1943, đã tập hợp được những khuôn mặt đặc biệt và nổi bật lúc bấy giờ, với một số giáo sư Trường Mỹ Thuật Hà Nội, các họa sĩ đã rời trường từ nhiều năm về trước, và cả những sinh viên đang còn học ở trong trường.
Nhớ lại về cuộc triển lãm này, chúng ta sẽ bắt gặp tranh sơn dầu của Inguimberty, Văn Giáo, Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái; sơn mài Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Sĩ Ngọc, Mạnh Quỳnh, Nguyễn Khang; tranh lụa Lê Văn Đệ, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Tiến Chung. Hoàng Tích Chù bày cả tranh sơn mài và sơn dầu. Người xem tranh còn được thưởng thức những dessins khá đẹp, là loại tranh mới vẽ bằng bút chì của Nam Sơn, một trong hai bức loại này của Nam Sơn là chân dung một nhà sư đang ngồi xếp bằng, không phải đang thiền định, nhưng cũng ở trong một dáng ngồi rất thanh tĩnh, trầm tư.

Về điêu khắc, có tượng bán thân của Nguyễn Văn Thế, phù điêu đắp nổi của Diệp Minh Châu và Nguyễn Thị Kim; tượng thân người (torse) và chân dung bán thân (buste) của Évariste Jonchère, nhà điêu khắc từng đạt giải Khôi nguyên La Mã (Grand prix de Rome), bấy giờ là giám đốc Trường Mỹ Thuật Hà Nội, thay thế Victor Tardieu đã qua đời từ năm 1937. Nhắc đến Inguimberty, Jonchère, chúng ta cũng nên nhớ đến Georges Barrière, mặc dù không có tiếng tăm gì lắm vào thời ấy, nhưng cũng đã từng được giải thưởng Đông Dương (Prix de L'Indochine) từ năm 1934, rồi qua sống ở Đông Dương, đã đi qua nhiều nơi khắp Việt, Miên, Lào, sang cả Siam (tức Thái Lan sau này), từ trung du, thượng du Cao-Bắc-Lạng, đến Đồ Sơn, Angkor ... để ghi chép và vẽ. Georges Barrière cũng có bày một số tác phẩm của ông trong cuộc triển lãm này.

Nhìn chung, nói đến "Salon Unique 1943," chúng ta tức thời nhớ ngay đến với nhiều bồi hồi về những tác phẩm đẹp của Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ, Tô Ngọc Vân, và Trần Văn Cẩn. Rất hiển nhiên, những tác phẩm ấy đã tạo ra được một thế giới nghệ thuật Việt Nam, những phong cách Việt Nam, không còn lẫn lộn vào đâu được nữa, không thể lẫn với Tây, và tất nhiên càng không thể lẫn với Tàu hay Nhật. Những thiếu nữ mềm mại, duyên dáng, trong những chuyển động vô cùng thanh tú trên bộ bình phong sơn mài Nguyễn Gia Trí, đã tạo nên được một sự quyến rũ chưa từng có trước đó. Những dáng người mềm mại, uyển chuyển ấy là của riêng Nguyễn Gia Trí, của riêng mỹ thuật Việt Nam, không còn chút nào dấy vết Victor Tardieu, Joseph Inguimberty, hay những bậc thầy của hội họa phương Tây. (4)
Con đường đến với nghệ thuật của Nguyễn Gia Trí đã được chỉ ra dưới một ngôi sao của định mệnh, bởi vì từ hồi nhỏ, sống giữa một gia đình làm nghề thêu phẩm phục triều đình, như ông đã từng giải thích với Thái Tuấn, rồi do nhìn quen những màu sắc, hình vẽ rồng mây, những đưòng thêu chỉ vàng, chỉ bạc rực rỡ, có lẽ tất cả những điều đó đã ảnh hưởng đến sở thích của ông (5). Tính cách thủ công với nghệ thuật thêu trướng liễn, phẩm phục, với những hình vẽ trang trí đã để lại nhiều vết tích trên các tác phẩm sau này. Ví dụ trên bức Hoài Niệm Xứ Bắc thực hiện năm 1969, ông đã từng làm một đường viền trang trí chung quanh, với các họa tiết gợi ý từ những mô típ trang trí cũ, hoặc từ những truyền thuyết dân gian như mai-lan-trúc-cúc, long-lân-quy-phượng, cầm-điểu, chuông-khánh, bánh chưng-bánh dầy, cầm-kỳ-thi-họa ... Rồi cũng trong đường viền ấy, còn cả thơ Tản Đà trích lại từ bài Thề Non Nước được viết theo dạng chữ Nôm. Cũng như trên bức Vườn Xuân Trung Nam Bắc (2m x 5,5m) hiện đang bày tại Bảo Tàng Mỹ Thuật TP Hồ Chí Minh, bức tranh được đóng lại trong một đường viền trang trí tương tự, và dọc theo hai đường viền bên trái và phải là hai câu thơ chữ Hán của Đào Duy Từ mà Bùi Quang Ngọc đã tạm dịch thành chữ quốc ngữ: "Bóng trăng như đèn tỏa sáng trên mặt nước, Hương hoa thoang thoảng bay theo gió đưa."
Suốt một đời hoạt động nghệ thuật hơn nửa thế kỷ, Nguyễn Gia Trí đã để lại một sự nghiệp to lớn. Ông là một nghệ sĩ có thực tài, lại giữ được phẩm chất đạo đức của một nghệ sĩ lớn, trước bao nhiêu biến đổi thăng trầm của vận nước trong mấy chục năm qua. Là bạn thân của Nhất Linh, hoạt động với nhóm Tự Lực Văn Đoàn, với các báo Phong Hóa, Ngày Nay, ông liên hệ nhiều với nhóm cách mệnh Việt Quốc, rồi thời thế thay đổi nhiều, mặc dù vẫn làm việc kiên trì, ông có một đời sống gần như ẩn cư ngay giữa cảnh đô hội; và đến sau năm 1975, cảnh thay đổi ở Miền Nam thực quá phũ phàng, ông dường như không còn muốn sáng tác nữa. Vườn Xuân Trung Nam Bắc là một bức tranh dở dang, do một nhà doanh nghiệp đặt ông làm từ trước thời điểm 1975. Về sau, người đặt tranh đang ở Pháp đã tặng lại quyền sở hữu cho ông, và ông đã hoàn tất bức tranh cũng chỉ mới trong vài năm cuối đời khi ông còn đủ sức khỏe.
Nguyễn Gia Trí thực sự đã tạo được danh tiếng bởi những tác phẩm sơn mài tuyệt diệu của mình, mặc dù chất liệu này xem ra rất nghèo nàn, đặt ra quá nhiều hạn chế cho công việc sáng tác nghệ thuật, gần gũi với công việc của một người thợ thủ công hơn là một nhà nghệ sĩ. Vượt qua những giới hạn đó, Nguyễn Gia Trí đã hết sức tài tình để dựng nên một thế giới hội họa đầy tính sáng tạo, hết sức sống động, ảo hoặc, rất thơ mộng và có hồn. Và để hiểu được nghệ thuật của ông thì nên nhập vào ý tưởng này của ông: khi người ta kết luận về ông, cho là ông đã chế ngự được sơn mài, làm chủ được một chất liệu rất ương ngạnh thì chính ông đã cười và trả lời: "Mình có làm chủ đâu; phải hiểu biết tính chất của nó, như tính tình của một người bạn, đôi lúc cũng phải theo khả năng của nó chứ." (6)
Nguyễn Gia Trí đã lập lại nhiều lần ý tưởng đó với những người học trò của ông hay với bất kỳ ai muốn đến gần ông để hiểu biết phần nào về nghệ thuật sơn mài của ông. Như có lần ông đã chỉ ra cho một nhà nghiên cứu ở miền Bắc vào, tìm đến ông với một lòng tôn kính hết sức đặc biệt. "Lúc đầu vẽ sơn mài như sơn dầu tôi thấy bất tiện vì nó loáng. Cho nên, nếu vẽ sơn mài như sơn dầu thì phải tìm cách thoát ly, bỏ cách bắt chước sự thật. Sơn mài là sơn mài. Đời sống của sơn mài không dính dáng đến đời sống của con người." (7)
"Nghề sơn, theo tôi nghĩ, người ngoại quốc không làm được, vì họ sợ lở sơn mà không có tính kiên nhẫn như ta. Nhưng ta làm được, vì chính những lý do ấy mà nó mang dân tộc tính. Sơn mài Nhật Bản ngày nay, họ làm bằng máy tinh vi. Trái lại sơn mài của ta làm bằng tiểu thủ công, rất chậm và đắt, do đó, không cạnh tranh được với họ. Vì vậy, muốn vượt lên họ, nghề của mình không đẩy lên thành mỹ thuật thì nghề sẽ chết. Tôi nghe một số anh em ở ngoài Hà Nội vào nói, các họa sĩ ngoài Bắc hiện chỉ mua được sơn non, sơn xấu để làm - còn sơn tốt thì xuất khẩu - tôi rất buồn. Nếu thế, sơn mài sẽ chết, không cạnh tranh được với ngoại quốc, trước hết là với Nhật Bản và Trung Hoa. Nên nhớ rằng trình độ nghệ thuật của họ cũng rất cao, ta phải dè chừng ..." (8).
Nguyễn Gia Trí nói đến tính tỉ mỉ, công phu của sơn mài một cách thẳng thắn, ông không ngại gì khi nói đến chất thủ công của nó. Hơn mười năm trước, Việt Báo Kinh Tế(Westminster, California) loan tin về cái chết của nhà danh họa còn có in một trang hồi ký của Nhã Ca "Họp mặt với danh họa Nguyễn Gia Trí," hồi ký này giúp chúng ta hiểu thêm một điều rất quan trọng về Nguyễn Gia Trí, ấy là vì có một thời hoạt động cách mạng với Việt Nam Quốc Dân Đảng, chung quanh nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Gia Trí cũng từng bị Pháp bắt và chỉ định cư trú một nơi trong nhiều năm, và nhờ những năm bị an trí này, ông đã dồn hết thì giờ và sức lực cho sơn mài, tìm ra được những cái tỉ mỉ, khó chịu, công phu và đòi hỏi riêng của nó. "Có lần tôi đã bảo Đằng Giao rằng sơn mài là thứ nghệ thuật chỉ những anh từng bị cầm tù mới có thể thành công được. Sự thực là vậy. Đây là thứ nghề rờ mó tỉ mỉ, tối công phu. Nếu không bị Tây cầm chân một nơi, chắc tôi đã không kiên nhẫn ngồi một chỗ để mà làm việc này." (9)
Tôi không biết ghi chép của Nhã Ca về lời lẽ và ý kiến của Nguyễn Gia Trí có chính xác hay không. Có thể, đấy chỉ là một sự nhấn mạnh của Nguyễn Gia Trí về công phu mà kỹ thuật thực hiện sơn mài của ông đòi hỏi. 
Tuy nhiên, nó không phải chỉ là kết quả của thời kỳ rị mọ tìm kiếm khi Nguyễn Gia Trí bị bọn cầm quyền Pháp cầm chân một chỗ, an trí ông ở một vùng thượng du Bắc Việt rồi về sau ở Thủ Dầu Một, Nam phần. Bởi vì tất cả những điều khám phá đó đều đã được Nguyễn Gia Trí tìm thấy từ thời còn học ở Trường Mỹ Thuật Hà Nội, rồi dần dà được bồi đắp thêm từng ngày, và đã được hoàn tất từ trước thời điểm 1944. Trong cuộc triển lãm năm 1944 ở Phòng Thông Tin Hà Nội, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung ghi nhận về sơn mài của Nguyễn Gia Trí từ 1939 đến 1944, mà ông cho là một kết quả hết sức đáng ngạc nhiên, và tranh sơn mài đã bắt đầu cất cánh. Nguyễn Đỗ Cung phải gọi đó là nghệ thuật của một con người kỳ dị và thông thái. Chẳng qua cũng chỉ là do sự hấp dẫn quá lạ thường từ khám phá về kỹ thuật đưa lại mà thôi. Chúng ta hãy đọc lại vài dòng ghi nhận của Nguyễn Đỗ Cung trên báo Thanh Nghị, số 79, ngày 19-8-1944.
" ... Đen, đỏ, vàng. Với những màu hơn kém nhau chút ít của nghề sơn, họa sĩ đã cho ta một cuộc sống mà sự giàu sang tương tự như cuộc sống thực của ta.
Sự tạo tác bao giờ cũng đẹp.
Còn gì khô sượng bằng vỏ trứng gà giữa mấy màu đen đỏ. Vỏ trứng đó đã thành ánh sáng nhễ nhại và huyền diệu trên thân thể của một thiếu nữ mặc áo đỏ trên một bức sơn. Giữa một cảnh lộng lẫy, thiếu nữ đó đã tưng bừng đi ra cũng mặc áo xám xanh
Áo xám xanh này chỉ có sơn đen và vỏ trứng gà.
(...) Những hình thù thốt ra đanh thép như vẫn sống như vậy từ bao giờ, giản dị và bền bỉ như những vật thiên nhiên. Kết quả của suy nghĩ và kinh nghiệm.
Người ta đã quên chất sơn, quên đầu đề, quên hết để mà tưởng được sống giàu sang cảnh họa sĩ Nguyễn Gia Trí.
Nhưng có thể nào đầu mối sự huyền diệu đó không khởi sự trong lòng họa sĩ?
(...) Nên tôi phải cám ơn anh. Anh gợi lên cho tôi phong phú và rõ rệt. Anh đã nói thực, vì đã nghe mãnh liệt. Bằng tin tưởng sung sướng, tôi bay theo, tuy, cũng đã như họa sĩ, anh dùng rất nhiều cung bậc, tuy người bay trước tôi thật kỳ dị và thông thái.
Nhưng dù thông thái thế nào, anh cũng đã cố gắng, nên tôi mới không thể nào cưỡng nổi mà không tin anh. Sung sướng, tôi thấy cả tôi." (10)
Nguyễn Gia Trí sinh năm 1908 ở Thường Tín, Hà Đông, Bắc Việt, qua đời ở Sài Gòn vào hồi 10 giờ 30 đêm 20 tháng 6 năm 1993 tại nhà riêng số 493 Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận, hưởng thọ 85 tuổi.
Nguyễn Gia Trí không còn nữa, nhưng ông đã để lại một sự nghiệp lớn cho dân tộc, cuộc đời và hậu thế.
Những tác phẩm của ông dù lớn dù nhỏ đều là những dấu vết đáng ghi nhớ của một nghệ sĩ lớn, mà không những thế, chung quanh đời ông còn tỏa ra một ánh sáng kỳ ảo bởi một nhân cách đặc biệt với nhiều giai thoại đẹp đẽ.
Một kẻ hậu sinh cũng đầy tài năng là Trịnh Cung, khi nhắc đến Nguyễn Gia Trí đã nói với giọng ngưỡng mộ: "Khoảng 30 năm, kể từ khi tôi vào đời đến nay chưa hề được thấy ông làm triển lãm ở các phòng triển lãm của thành phố, thế mà khi nhắc đến ông một cảm giác tôn kính ông như đã có từ bao giờ trong da thịt tôi. Cảm giác có được phải chăng đã do những tác phẩm sơn mài tuyệt vời của ông lôi cuốn tôi mỗi lần tôi được dịp gặp gỡ. Những tác phẩm như vậy hiện nay còn rất ít trong thành phố chúng ta. Ở một số nhà thờ, một vài cơ quan và một ít nhà sưu tập cá nhân có tranh của ông và đã trở thành báu vật của họ.
Nguyễn Gia Trí là một họa sĩ tiền phong của nền hội họa Việt Nam, nhất là đối với bộ môn tranh sơn mài. Tính cách của một nhà tiền phong lớn đã xuất hiện rất sớm. Ông chính là người đầu tiên đã làm mới tranh sơn mài. Cũng chỉ sử dụng vàng, đỏ, đen, vỏ trứng và sơn phủ như bất cứ một họa sĩ tranh sơn mài nào khác, thế mà ông đã dựng nên một thế giới hội họa rất sống động, kết quả của sự phối thành từ hai trường phái phục hưng và hiện đại. Sự thành đạt này cũng có thể được coi như tương đương với kỳ công của Andres Ségovia - nhà thiên tài âm nhạc người Tây Ban Nha - đã đưa cây đàn guitare dân gian lên địa vị một nhạc cụ hàn lâm.
Trường hợp của họa sĩ Nguyễn Gia Trí thường làm tôi liên tưởng đến những họa sĩ của các triều đại xa xưa của Trung Hoa. Họ sống và vẽ như một kẻ chân tu, từ chối mọi sự tán tụng, ban thưởng, địa vị, thế mà đã để lại cho đất nước những báu vật dù cho tên tuổi của họ có khi người đời sau không tìm ra dấu vết." (11)
Trong giới làm nghệ thuật tạo hình Việt Nam xưa nay, có lẽ chưa có ai có một đời sống tuy nhẹ nhàng nhưng ương ngạnh, cổ quái và kiên quyết như Nguyễn Gia Trí. Trước đây, có lời đồn đại ông đã đuổi ra khỏi nhà một người đại diện của chính phủ Ngô Đình Diệm khi vị này đã trả giá một bức tranh của ông, bức tranh mà chính phủ dự định mua để tặng cho nhà UNESCO ở Paris. Cũng có lời đồn ông đã từ chối bán tranh cho Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Và điều này ở Sài Gòn sau năm 1975, ai cũng biết rõ: ông đã dứt khoát đóng cửa, lạnh nhạt không tiếp những nhân vật lãnh đạo văn hóa nghệ thuật từ Hà Nội vào, ghé đến thăm viếng.
Xem mấy tấm hình Trần Dạ Từ chụp ông vào những ngày cuối đời ông, không hiểu tại sao tôi lại liên tưởng đến Houkusai, có lẽ vì tác phẩm lớn và cuộc đời đặc biệt của ông, vì sự nghiệp ông để lại cho nền văn hóa dân tộc cũng lớn như Houkusai đối với nền văn hóa Nhật Bản. Và có lẽ vì một liên tưởng nhỏ khác nữa, những chân dung này hơi giống với bức chân dung tự họa rất danh tiếng của Houkusai. Chính với chân dung tôi nhìn thấy đó, Thanh Tâm Tuyền cũng nhìn thấy gần như vậy, mà có cường điệu đôi chút, có lẽ như vậy mới hợp với cách nhìn của nhà thơ đã phát động và dựng nên trào lưu thơ tự do mạnh mẽ, ào ạt của thời nào.
Quanh co đường hẻm hẻm
giữa sáng Chủ Nhật
đến gặp bất ngờ một Thiền Sư

Ngồi im lắng nghe và ngắm

Sét đánh bao giờ
hằn dấu sẹo trắng nửa sọ trái
Chiếc đầu nghiêng cúi
Đôi tay dài vểnh đón nghe
lời trên môi buột thốt
Đôi mày tối rậm
lấp lánh ánh trắng những ngày tới

Và những ngón tay tự run rẩy

Buông tiếng cười ròn tan
như nắng đùa trên dàn hoa giấy
lẫn trong xe cộ trẩy hội ồn phố xa (12)
Thanh Tâm Tuyền thấy Nguyễn Gia Trí là một thiền sư với nửa sọ trái bị sét đánh tự bao giờ mà hằn lại vết sẹo trắng. Có lẽ, Thanh Tâm Tuyền, qua kinh nghiệm riêng của mình, hoặc giả là vì vừa trở về sau những ngày dài trong trại cải tạo, đã thấy Nguyễn Gia Trí qua một mối ám ảnh quá mãnh liệt nào đó. Thực sự, Nguyễn Gia Trí không chịu đựng tiếng sét và giông bão nghệ thuật từ trời đất hay thời đại dữ dội như vậy, như một Gauguin hay Van Gogh hay Nguyễn Sáng, mà là như một bậc đại sư về nghệ thuật gốm của Nhật Bản, hay như Bernard Leach, một người tìm về và học hỏi về gốm trong truyền thống đó. Nghệ thuật của Nguyễn Gia Trí là một mày mò tiệm tiến rất hài hòa và thanh nhã, rất đài các và sang trọng, chính trong cung cách đó mà Nguyễn Gia Trí đã xây dựng được nhiều tác phẩm quý giá, tuyệt đẹp.
Để bổ túc thêm cho những ghi chép khá sống động bên trên của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền về một chân dung bên ngoài của Nguyễn Gia Trí, chúng ta hãy lắng nghe thêm đôi lời của ông Trí nói về mỹ thuật mà họa sĩ Nguyễn Vìệt đã ghi lại được từ các buổi nhàn đàm năm 79 và 80. Lời nói và ý tứ nhẹ nhàng này cũng giúp cho người thưởng ngoạn nghệ thuật hiểu được ông hơn và cảm được nghệ thuật của ông dễ dàng hơn, bởi vì phần nào đó cũng là chiều sâu của tâm hồn và hội họa Nguyễn Gia Trí.

"- Công của nghệ sĩ là rửa mắt cho công chúng. Cho công chúng nhìn sáng hơn, rõ hơn, và mới hơn. Một quan niệm, một đầu óc quá cổ điển không có lợi cho sáng tác.
Nghệ sĩ dùng qui luật nhỏ của riêng mình để mò mẫm tìm qui luật lớn.
Với chất liệu sơn mài hoặc chất liệu khác cũng vậy, không được bắt nó phải theo mình. Mà phải tôn trọng chất liệu. Hiểu nó và nương theo nó mà điều khiển.
Trên một tấm vóc, một tấm toan, hoặc một tờ giấy, nghệ sĩ được tự do tuyệt đối. Không có quy tắc luật lệ nào cả. Mất tự do vì nghệ sĩ tự mình trói mình bằng những thành kiến quy tắc nào đấy.
Hội họa là nghệ thuật tạo hình. Cái gốc của nó là tạo hình. Hình rất đa dạng, một chấm cũng là hình. Một nét, một phẩy cũng là hình. Màu sắc và hình không nhất thiết phải gần với nhau.

- Vì tôi làm việc bị lầm lỗi nhiều nên mới tiến bộ. Còn vẽ khéo quá thì chậm phát triển. Hội họa gần với tôn giáo vì nó xuất phát từ tâm người ta. Nó không phải làm bằng óc hay bằng tay.
- Làm nghệ thuật điều chính yếu là thành thật. Cái hại nhất là giả với chính mình. Làm hàng trăm cái hỏng để lấy nửa cái được hoặc một cái được. Người nghệ sĩ không bao giờ thỏa mãn với chính mình.

Chất liệu chiếm một nửa người nghệ sĩ. Phải yêu chất liệu, yêu như vợ mình thì mới có con là tác phẩm. Mỗi chất liệu có đặc điểm riêng. Phải nắm được tính chất riêng của nó mà phát triển. Ví dụ độ dày mỏng trong sơn dầu. Sơn mài thì lại yêu cầu phẳng. Độ bóng, phẳng, hoặc bất kỳ cách nào miễn là đạt hiệu quả nghệ thuật. Khi có điều gì chưa đạt, người vẽ áy náy và tìm cách khắc phục cho đến khi tạm thỏa mãn, hoặc thỏa mãn với bức tranh ấy. Với nghệ sĩ, tác phẩm đi qua và năng lực sáng tạo còn lại.

Vì họa sĩ muốn biết và thấy cái tâm mình, nên mới tìm tòi và làm việc. Vì không biết nên mới vẽ. Đối với hội họa trừu tượng cũng không nên phân biệt với các môn phái khác. Nó cũng chỉ là phương tiện để họa sĩ tìm cái thật. Trừu tượng khó là vì họa sĩ không có chỗ dựa vào mẫu thực. Từng chấm từng nét trong tranh trừu tượng cũng có hình riêng và là một với toàn thể tranh. Chi tiết cũng như những giọt sương, nhưng mỗi giọt sương cũng đều soi ánh mặt trời. Mọi chi tiết trong tranh cũng đều chịu chung một sự kiểm soát ngang nhau." (13)

Nghệ thuật của Nguyễn Gia Trí là một thành quả của công phu, kỷ luật, khám phá cái đẹp trong một trạng thái thanh tĩnh, nhẹ nhàng, và an hòa của tâm hồn. Nhưng để dựng nên được thế giới của cái đẹp, Nguyễn Gia Trí cũng có một cách nhìn khá cởi mở và tự do, không tự ràng buộc mình vào trong định kiến và quy tắc nhỏ nhặt, chật chội nào.
Cho đến đầu thế kỷ XX, nghệ thuật tạo hình Việt Nam thường chỉ là vô danh, chưa có tác giả nào để lại tên tuổi một cách đặc biệt. May thay, đến thời đại chúng ta, đã có một danh họa Nguyễn Gia Trí, đánh một dấu mốc vào sự nghiệp văn hóa nghệ thuật của đất nước. Chúng ta nghiêng mình tưởng nhớ và biết ơn ông. 

Huỳnh Hữu Ủy

Thành phố Vườn, Giáp Tết Ất Dậu, 2005
(Thế Kỷ 21, số 189&190, tháng 1&2, 2005)

CHÚ THÍCH:
(1) Theo Đỗ Lai Thúy, Chân Trời Có Người Bay, Nxb Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội 2002, trang 39.
(2) Tô Tử (tức Tô Ngọc Vân), "Nguyễn Gia Trí và sơn ta", Ngày Nay, số 146, ngày 21.1.1939.
(3) Tô Ngọc Vân, "Những bức vẽ bằng sơn ta của Nguyễn Gia Trí", Thanh Nghị, số 77, năm 1944.
(4) Để ghi lại đôi nét về Salon Unique 1943, chúng tôi đã dựa vào bài viết của CL.M., Le "Salon Unique 1943", Indochine Hebdomadaire, Hà Nội, 4e Anné, No 171, 9 Décembre, 1943.
(5) Thái Tuấn, "Họa sĩ Nguyễn Gia Trí", Thế Kỷ 21, số tháng 3, 1991.
(6) Trích dẫn theo Thái Tuấn, Thế Kỷ 21, đã dẫn ở trên.
(7) (8) Mỹ Thuật, Hà Nội, số 1.1989, bài viết của nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân.
(9) Nhã Ca, "Họp mặt với danh họa Nguyễn Gia Trí", Việt Báo Kinh Tế, California, số 97, tháng 7.1993.
(10) Nguyễn Đỗ Cung, "Nguyễn Gia Trí (giai đoạn 1939-1944)", Thanh Nghị, số 79, ngày 19-8-1944. In lại trong Kỷ Yếu Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật, Hà Nội, số 7-1991, trang 60-61.
(11) Trịnh Cung, "Sự im lặng của một bậc thầy", bài in trên Lao Động Chủ Nhật ở Sài Gòn, in lại trên tạp chí Đất Mới, Québec, Canada, số tháng 2-1991.
(12) Thanh Tâm Tuyền, "Chân dung họa sĩ Nguyễn Gia Trí ngày về thăm", Thơ Ở Đâu Xa, Trầm Phục Khắc xb, cơ sở Văn phát hành, California, 1990, trang 73-74.
(13) Nguyễn Việt ghi lại lời họa sĩ Nguyễn Gia Trí trong các buổi nhàn đàm ngày 19 tháng 9 năm 1979, 1-8-1980 và 19-11-1980.
CF. Nguyễn Việt, "Tưởng Niệm Họa Sĩ Nguyễn Gia Trí", Mỹ Thuật, T.ph Hồ Chí Minh, số 10-11, 1993.




MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA II (1931-1936)
HỌA SĨ TÔ NGỌC VÂN (1906-1954)




Tác phẩm tiêu biểu:
  • Thiếu nữ bên hoa sen (1951)
  • Thiếu nữ bên hoa huệ (1943)
  • Hai thiếu nữ và em bé (1944)
  • Thiếu phụ ngồi bên tranh tam đa (1942)
  • Buổi trưa (1936)
  • Bên hoa (1942)
Thiếu nữ bên Hoa Huệ 

 Đốt đuốc đi học (1954) BTMT Việt Nam
 Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 101 x 78,4 cm, 1944. 
Tác phẩm được xếp hạng bảo vật quốc gia số 65


  

Thiếu nữ bên hoa sen (1951)






(Tư liệu của Hội Mỹ thuật Việt Nam)


MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA II (1931-1936)
HỌA SĨ THANG TRẦN PHỀNH (1895 - 1973)










MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA IV (1928-1933)

HỌA SĨ NGUYỄN TƯỜNG LÂN (1906-1946)

Nguyễn Tường Lân (1906-1946) là họa sĩ Việt Nam, một trong bộ tứ họa sĩ nổi tiếng thời kỳ đầu của nền mỹ thuật Việt Nam.
Nguyễn Tường Lân học khóa 4 trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1928-1933). Sau khi tốt nghiệp, ông mở xưởng vẽ tại Hà Nội, nổi tiếng với đầy đủ tiện nghi và những người mẫu đẹp. Thuần thục hầu hết các chất liệu sơn dầusơn màilụa, khắc gỗ, bột màu, chì than, Nguyễn Tường Lân đã sáng tác nhiều tác phẩm, tuy nhiên cho đến nay, rất ít ỏi các tác phẩm của ông còn sót lại
Nguyễn Tường Lân - Hoa sen - 61 x 31 5 cm - bột màu  6000 - 8000 Euros

Tại Salon 1935 (SADEAI), báo Ngày nay nhận xét:
Tại Salon 1936 (SADEAI):
Salon 1939 (SADEAI):
Ông được xem là một trong số ít các họa sĩ đương thời có khả năng đưa các màu nguyên chất vào một sự hài hòa mang tính hư cấu, tượng trưng, giản dị và nhã nhặn, kể cả đối với tranh lụa. Ngay từ thập niên 1940, bằng nhịp điệu phóng khoáng của những vệt bút lớn chạy trên sơ đồ trang trí, Nguyễn Tường Lân đã sớm phá cách để đi đến phong cách nghệ thuật trừu tượng hóa (Hai thiếu nữ bên cửa sổ, Salon Unique, 1943)
 Nguyễn Tường Lân 1906-1946 Chợ Miền núi
 Nguyễn Tường Lân 1906-1946 Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nguyễn Tường Lân 1906-1946 Đôi bạn


MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA IV (1928-1933)

HỌA SĨ NGUYỄN CÁT TƯỜNG (1912-1946)



Hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường, bút hiệu Lemur Cát Tường (nghĩa chữ Hán “Cát Tường là điềm lành”, và dịch tiếng Pháp “Bức tường là Le mur”), sinh năm 1912 tại tỉnh Sơn Tây khi cha là Nguyễn Huy Thành, gốc Hà Nội, đang làm việc tại sở Hỏa Xa ở đó.

Vốn bản tính hiếu động và nhiều sáng tạo, Nguyễn Cát Tường đã hội nhập vào các lãnh vực khác nhau của đời sống, chỗ nào ông lưu tâm tới cũng đều ghi lại sự cải tiến.

Năm 1928, Nguyễn Cát Tường trúng tuyển vào khóa 4 trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương và tốt nghiệp vào năm 1933.
 Tranh vẽ bà Cát Tường và cô con gái đầu lòng Nguyễn thị Minh Nguyệt.
(Mother and Child by Cat Tuong  1940  Courtesy of  Sotherby)


MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA V (1929-1934)

HỌA SĨ PHẠM HẬU (1903-1995)


























MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA VII (1931-1936)

HỌA SĨ TRẦN VĂN CẨN (1910-1994)


TRẦN VĂN CẨN thuộc lớp hoạ sĩ đầu tiên của nền hội hoạ Việt Nam (sinh ngày 13- 8- 1910 tại Ky Túc - Kiến An - Hải Phòng, mất ngày 31- 7- 1994 tại Hà Nội). Ông xuất thân từ một gia đình nghèo, cha làm thư ký cho bưu điện Kiến An, mẹ làm con giống bằng bột và đồ chơi giấy Trung thu để kiếm tiền nuôi các con. Tuy vậy mấy anh chị em hoạ sĩ đều được đi học, riêng ông tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương (khoá 1931 - 1936). 


Trần Văn Cẩn - Ở hang - Lụa (1951) BTMTVN
Trần Văn Cẩn - Tát nước Đồng Chiêm - sơn mài (1958) BTMTVN










 



MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA VIII (1932-
HỌA SĨ LƯƠNG XUÂN NHỊ (1914-2006)

LƯƠNG XUÂN NHỊ (sinh ngày 10/04/1914, mất ngày 25/05/2006 tại Hà Nội) quê ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương khoá ( 1932 - 1937); hội viên ngành hội hoạ Hội Mỹ thuật Việt Nam từ 1957. 

Họa sĩ Lương Xuân Nhị







LƯƠNG XUÂN NHỊ - Đồi cọ. 1955, sơn dầu. Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam
LƯƠNG XUÂN NHỊ- Chợ hoa đào. 1985, lụa. Sưu tập của UBND Tp. Hà Nội

                                  LƯƠNG XUÂN NHỊ - Bên bờ giếng. 1958. Sơn dầu
 Lương Xuân Nhị - Jeune femme 2 - encre et couleur sur soie - 52 x 41 cm
 Lương Xuân Nhị - Jeune femme  - encre et couleur sur soie - 52 x 41 cm







HOẠ SĨ PHẠM DUNG ĐOAN (     ?   -    ?   )

























MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA 1941-1946
HỌA SĨ BÙI XUÂN PHÁI (1920-1988)



Họa sĩ Bùi Xuân Phái sinh ngày 1/9/1920 tại Hà Nội, làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hà Tây, tỉnh Hà Đông, một làng nổi tiếng với tranh khắc gỗ dân gian Kim Hoàng.

Ông xuất thân trong một gia đình tiểu tư sản trung lưu nhà ở phố Hàng Thiếc, sau chuyển về 87 Hàng Bút nay gọi là phố Thuốc Bắc. Chính vì vậy mà ông đã thuộc lòng từng con đường, ngõ ngách của 36 phố phường Hà Nội.

Thủa nhỏ, ông học Trường Trí Tri ở phố Hàng Quạt, có năng khiếu về môn văn, và rất thích vẽ. ở tuổi học sinh ông đã được báo “Cậu ấm Cô chiêu” đặt vẽ tranh vui thường kỳ…

Bùi Xuân Phái qua đời năm 1988 bởi căn bệnh ung thư phổi. Sinh thời, ông được xem là người mang đậm phong cách của người Hà Nội. Các bức chân dung Bùi Xuân Phái còn lại hiện nay cho ta thấy, đó là một người đàn ông có gương mặt gầy gầy, có phần khắc khổ nhưng vẫn toát lên nét quý phái.





MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA 1938-1942
HỌA SĨ TẠ TỴ (1921-2003)


Tạ Tỵ sinh năm 1921 ở Hà Nội. Theo học Trường Mỹ Thuật Đông Dương năm 1938, ra trường năm 1943, đỗ đầu khi tốt nghiệp.
Những năm dồi dào sinh lực thời trai trẻ và trung niên, ông đã tổ chức được 3 cuộc triển lãm cá nhân vào các năm 1952 ở Hà Nội, 1955 và 1960 ở Sài Gòn. Người ta thường nhớ đến Tạ Tỵ vì tính cách mới mẻ của "lập thể Tạ Tỵ". Ông là người đầu tiên nghiên cứu và đưa không khí lập thể vào Việt Nam. Ông bị vây bủa bởi đường lối nghệ thuật này từng vang dội từ Âu Châu đầu thế kỷ, muốn sử dụng bút pháp này để xây dựng thế giới của mình, để tháo gỡ và đào sâu vào đối vật, làm thiên nhiên lệch lạc đi, phá vỡ tất cả những cách nhìn quen thuộc về sự vật để khám phá ra những khía cạnh mới mẻ nhất, muốn tạo được sự bỡ ngỡ và đưa người xem đến chỗ bất ngờ.
Những người lưu tâm đến hội họa Tạ Tỵ vẫn nhắc đến các tác phẩm lập thể Vàng, Tím, Tồn Tại, Chiếu bạc ... thời ở Hà Nội, khoảng năm 1951. Phải nhận là Tạ Tỵ cũng có đôi phần tài hoa, nhưng tranh của ông chưa đủ trọng lực, không có gì sâu sắc, mới chỉ là những mảng trang trí đẹp, vui mắt trong thoáng chốc. Công của Tạ Tỵ chỉ là ở chỗ gây nên được những phản ứng sôi nổi, mà những phản ứng như thế thì bất cứ vào thời đạio nào cũng rất hữu ích cho sự tiến bộ chung.
Trịnh Cung cho chúng tôi biết là vào khoảng 1974 và đầu 1975, Tạ Tỵ mới bắt gặp được ngôn ngữ lập thể đích thực, đã thực hiện được một vài tác phẩm có chiều sâu thực sự của nghệ thuật này, nhưng riêng chúng tôi, vì không nắm vững được sự kiện này nên không dám xác định điều gì mà chỉ xin ghi nhận lại đây một ý kiến đáng quan tâm.
Không khác mấy cách đánh giá của chúng tôi về Tạ Tỵ, Nguyễn Quỳnh cũng có viết mấy câu về Tạ Tỵ trong bài tổng kết ngắn Nhìn lại hội họa Việt Nam hiện đại (1930-1975): Một bài học để so sánh và tìm hiểu. (Tạp chí Hợp Lưu, số đã dẫn):
Tạ Tỵ không hiểu đã xem tranh lập thể ở đâu mà thường được coi là họa sĩ Việt Nam đầu tiên đưa hình khối vào tranh. Tuy rằng tranh lập thể của ông không đúng là lập thể kiểu Braque, Picasso hay Gris, nhưng ông đã có công thổi vào trong khung cảnh hội họa Việt Nam còn phôi thai trong lịch sử nhân loại, một luồng gió mới. Sau ông, ta thấy rất nhiều bìa nhạc mang màu sắc "lập thể". Hạn từ Sáng Tạo do nhóm của họa sĩ Tạ Tỵ nêu lên rất xúc động trong tâm hồn của thế hệ trẻ. Tranh lập thể của Tạ Tỵ lạ lùng như thơ mới theo kiểu Apollinaire và Prévert tại Việt Nam thuở ấy.





Nhân đây, chúng tôi cũng muốn nhắc thêm một chút nữa về Tạ Tỵ, ông có vẽ nhiều chân dung các văn nghệ sĩ, các người cầm bút, các nhà báo rất đẹp, lạ, có bút pháp và bản sắc riêng biệt, rất gần với loạt tranh có tên gọi Tinh tướng họa của Hoàng Lập Ngôn. Loạt chân dung của Hoàng Lập Ngôn vẽ văn nghệ sĩ, có điểm loáng thoáng giống Tạ Tỵ nhưng nhìn kỹ thì khác nhau rất nhiều. Tạ Tỵ và Hoàng Lập Ngôn đã lọc được cái thần của chân dung muốn vẽ, nắm được những nét chính rồi phóng bút theo cách riêng của mình. Chúng tôi in đính kèm một số chân dung các nhà văn, nhà báo được nhìn dưới mắt Tạ Tỵ để chúng ta có dịp nhớ lại và thưởng lãm 



MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG KHÓA CUỐI
HỌA SĨ NGUYỄN KIM ĐỒNG 







MỸ THUẬT YẾT KIÊU HÀ NỘI
HỌA SĨ BÙI QUANG NGỌC (1934)


Họa sĩ Bùi Quang Ngọc sinh năm 1934 tại Quảng Trạch, Quảng Bình. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, yêu nước. Tuổi thơ của ông gắn liền với với một làng quê miền cát trắng, mặn mà gió biển, thơ mộng giàu truyền thống khoa bảng, làng Cảnh Dương quê hương ông. 

BÙI QUANG NGỌC - Khiêu vũ. Sơn dầu
Bùi Quang Ngọc - Đi và đến

 BÙI QUANG NGỌC  - Khỏa thân. Sơn dầu
 Bùi Quang Ngọc - Bà lão nón quay thao
 BÙI QUANG NGỌC - Bến thuyền. Sơn dầu
 Bùi Quang Ngọc - chào mừng đại đồng dân tộc Sán Chỉ
 Bùi Quang Ngọc - chân dung 2
 Bùi Quang Ngọc - chân dung
 Bùi Quang Ngọc - chợ
Bùi Quang Ngọc - khỏa thân 06-1994 
 Bùi Quang Ngọc - khỏa thân 1994
 Bùi Quang Ngọc - Sài Sơn 03-1957
 Bùi Quang Ngọc - thôn Cói Đồng Mô Lạng Sơn 04-04-1955
 Bùi Quang Ngọc - tông xanh
 Bùi Quang Ngọc - Văn Cao 1992
 Bùi Quang Ngọc -
Bùi Quang Ngọc-self portrait 
Bùi Quang Ngọc-Trịnh Công Sơn

 

Hai Mươi Năm Hội Họa Miền Nam

   HUỲNH HỮU ỦY
Hai mươi năm Hội Họa Miền Nam (1954-1975) từ NHÓM SÁNG TẠO đến HỘI HỌA SĨ TRẺ VIỆT NAM, đã tạo nên vẻ mặt hiện đại cho nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Giai đoạn ấy rất quan trọng trong lịch sử Mỹ Thuật chung cho toàn bộ đất nước.
Năm 1954, hiệp định Genève được ký kết, đất nước bị chia cắt, Sài gòn trở thành đầu não văn hóa của miền Nam tự do, qui tụ tất cả các sinh hoạt văn học nghệ thuật trọng yếu của Miền Nam. Sau một thời gian dài chiến tranh ác liệt, mọi người như đều nô nức góp tay xây dựng một cuộc sống mới tự do, dân chủ, và hòa bình. Bầu khí ấy quả thực hết sức thích hợp cho những phát triển tự nhiên của một nền nghệ thuật tạo hình đang khao khát nở rộ.

Từ trái sang phải: Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Việt, Joe Schulmann (chuyên gia mỹ thuật Ấn), Phan Quốc Sơn (nhà sưu tập mỹ thuật và nghiên cứu cổ sử Trung Hoa và Đông Nam Á), Lương Văn Tỷ, Nghiêu Đề, bà Nghiêu Đề, một thân hữu, Bé Ký, Đỗ Quang Em, Nguyên Khai, Hồ Thành Đức, con trai Đỗ Quang Em.
Hình chụp ở Long Beach, California, năm 1997. (Tất cả hình trong bài này đều trích từ sách "NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH VIỆT NAM HIỆN ĐẠI" của Huỳnh Hữu Ủy, VAALA, 2008)

Trong một bài viết về Nghiêu Đề trước đây, tôi đã từng có dịp ghi nhận một nét chung của giai đoạn này: Những năm giữa thập niên '50 kéo dài đến đầu '60, không khí văn học nghệ thuật ở Sàigòn như hừng hực những ánh lửa kêu đòi đổi mới, khao khát sáng tạo. Làm mới, làm mới, phải bước qua những trang đời đã quá nhạt nhòa cũ kỹ không còn thể nào chịu nỗi nữa. Trước vận hội đầy hứa hẹn của một đất nước trẻ trung vừa vươn mình đứng dậy, sức sống sáng tạo thực sự bùng nổ. Sàigòn đã có những tiếng nói rất mới, đầy âm vang, mạnh mẽ và vô cùng thiết tha, ví dụ là những Duy Thanh, Thanh Tâm Tuyền, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Quách Thoại... (l)

Tự do, dân chủ, và sáng tạo không phải chỉ là tiêu đề, biểu ngữ, mà đã thực sự trở thành nhịp thở và sức sống của nhân dân. Đất nước vươn vai, nền văn học, nghệ thuật cũng vươn vai đứng dậy, và rất rõ ràng là những người làm văn học nghệ thuật đã cùng góp sức làm rực sáng một cuộc sống tinh thần đầy hương vị mới mẻ. Bất kỳ ai đã sống qua giai đoạn lịch sử này thì cũng đều phải thừa nhận sự thật ấy. Màu sắc tươi tắn cùng hương thơm nồng ấm của một nền dân chủ và tự do thực sự là mục tiêu phải đạt tới. (2)

Giữa bầu khí chung ấy, dường như đã có một sự gần gũi thực sự giữa nghệ sĩ và người cầm quyền. Có một sự hợp tác chân thành và thân thiện để xây dựng đất nước; và chính trên nền tảng đó mà một nền văn nghệ tự do cũng phát triển rất rực rỡ. Mặc dù giai đoạn hoàng kim này kéo dài không được bao lâu, dường như chỉ được chừng mấy năm, khoảng 1954-1958, rồi chấm dứt hẳn vào năm 60, và sau đó là sự vỡ mộng hoàn toàn của mọi người. Vậy nhưng, cũng kịp thời và cũng đủ thuận lợi để văn nghệ được phát triển. Riêng trong lĩnh vực tạo hình, một nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại đã phát triển rất nhanh, bắt kịp được tiếng nói thời đại, rồi trên đà chuyển động về phía trước, tính đến năm 1975, chỉ với 20 năm ngắn ngủi, đã dựng nên được một nền nghệ thuật rực rỡ, trẻ trung, rất hiện đại, và vô cùng sáng tạo như chưa từng thấy.


     Vựng tập triển lãm của Hội Họa Sĩ Trẻ,
năm 1969
Cần đặc biệt nhấn mạnh đến hoạt động mở đường cho một nền nghệ thuật hiện đại của nhómSáng Tạo và Người Việt Tư Do, điển hình là Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, họ di cư từ miền Bắc vào Nam, mang trong mình một giòng máu tự do, có đôi chút phiêu lưu, kết hợp với những thuận lợi của hoàn cảnh, họ bước vào cuộc canh tân ngôn ngữ hội họa ngày càng mở rộng. Một số họa sĩ và điêu khắc gia có dịp nghiên cứu về nghệ thuật ở Âu Châu vừa trở về, cũng góp phần mạnh mẽ trong việc xây dựng một nền nghệ thuật phong phú, đa dạng. Chúng ta có thể kể đến Văn Đen, Nguyễn Khoa Toàn, Ngy Cao Uyên, hai nhà điêu khắc Lê Ngọc Huệ, Nguyễn Văn Thế, kiến trúc sư mà cũng là họa sĩ Ngô Viết Thụ. Rồi đến khoảng giữa thập niên '60 và những năm '70, các nghệ sĩ trẻ đã nô nức và hăm hở tiến đến với tiếng nói mới mẻ của thời đại, phải kể đến những khuôn mặt qui tụ chung quanh nhóm nghệ thuật tiền phong của Sàigòn là Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam.

Nhìn lại những năm đầu sau l954 ở Sàigòn, nhiều phòng triển lãm được mở cửa, hoặc do vài ba họa sĩ hợp tác chung, hoặc do chính quyền tổ chức. Riêng trong năm 1958, người ta đã thống kê được trên 50 cuộc triển lãm khắp nơi trong nước, trung bình mỗi tuần lễ có một cuộc triển lãm. (3) Phòng Triển Lãm Mùa Xuân Kỷ Hợi (1959) đánh dấu một bước tiến mới và mở đầu cho các cuộc triển lãm thường niên về sau, với 75 họa sĩ gởi tranh tham dự, trung bình mỗi họa sĩ gởi đến bốn bức. (4)
Ghi nhận về cuộc triển lãm này, ông Đoàn Thêm, một nhà nghiên cứu mỹ thuật của thời bấy giờ, đã ghi lại: "Trong mấy năm vừa qua, đã khá nhiều họa sĩ lần lượt ra mắt công chúng, nhưng chưa từng thấy cuộc trưng bày họa phẩm nào có nhiều ý-nghĩa và sức hấp dẫn hơn là triển lãm khai mạc từ ngày l0.3.l959 tại Phòng Thông Tin Đô Thành. Số 300 bức tranh đủ các loại và các khuynh hướng, của những vị có tên tuổi cũng như của người chưa được công-chúng biết; sự tham gia nhiệt liệt của các giới nhất là của báo-chí trong sự giới thiệu hoặc phê bình; đó là những triệu chứng đáng mừng cho sự tiến-bộ mạnh mẽ của nghệ thuật. Và hơn nữa, cho sự tự do phát- triển tinh-hoa muôn màu sắc." (5)

Triển lãm Hội Họa mùa Xuân Canh Tý (l960) cũng nhộn nhịp tương tự năm trước. Đặc biệt đáng kể nhất là cuộc triển lãm Quốc Tế năm 1962, được mệnh danh là Đệ Nhất Triển Lãm Quốc Tế Mỹ Thuật tại Sàigòn, tổ chức ở vườn Tao Đàn từ 26 tháng 10 đến 15 tháng 11-1962, với sự tham dự của họa sĩ nhiều quốc gia khác như Pháp, Đức, Hòa Lan, Mỹ, Thụy Sĩ, Mã Lai, Trung Hoa, Úc Đại Lợi, Nhật Bản, Ma Rốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi Luật Tận, Tunisie, Đại Hàn, Á Căn Đình, Hồng Kông, Thái Lan, Ấn Độ. Một số họa sĩ Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài, theo lời mời của ban tổ chức cũng đã gửi tranh về tham dự. Như ở Pháp, các họa sĩ, Lê Phổ, Thái Bá, Võ Lăng, Vĩnh Tự đã có tác phẩm tham dự trong cuộc họp mặt lý thú này. Với phòng triển lãm này, Sàigòn rõ ràng đã có tham vọng xây dựng nơi đây thành một trung tâm mỹ thuật lớn. Với lợi thế địa lý là một bao lơn mở ra trên Thái Bình Dương, Sàigòn muốn biến nơi đây thành một ngã tư quốc tế, nơi hội tụ và gặp gỡ của những trào lưu nghệ thuật của thế giới. (6)

Trong lúc bộ môn hội họa phát triển mạnh, việc tổ chức một cuộc triển lãm mỹ thuật quốc tế như thế thật hết sức hợp thời và hữu ích. Mấy năm trước, trong vòng 5 năm, từ 1955 đến 1960, những cuộc triển lãm liên tục mở cửa của Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Tạ Tỵ đã tạo nên nhiều hào hứng, phấn khởi. Nhịp đập rộn ràng của một nền nghệ thuật mới như đang reo vang; Anh em sáng tác, cũng như giới nghiên cứu, phê bình và thưởng ngoạn đều nô nức theo dõi.


     Họa sĩ Duy Thanh, Sàigòn, 1961
Chúng ta thử nhớ lại đôi chút về các khuôn mặt Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn. Những người nghệ sĩ di cư này, qui tụ chung quanh nhóm Sáng Tạo, đã góp nhiều phần làm mới nền nghệ thuật hiện đại của đất nước. Cái mới của họ vốn đã tiềm tàng từ đất Bắc, rồi trong các đợt sóng di cư vào Nam, trong một tình thế hết sức mới mẻ, có lẽ cái giục giã, thúc đẩy của lịch sử đã đưa họ đến những cách phát biểu rất mới, phù hợp và đòi hỏi của tình thế và thời đại. Dĩ nhiên, nói rằng nghệ thuật của họ mới mẻ, có nghĩa là phải nhìn họ trong tình hình của nữa thế kỷ trước, để xem xét những vận động đổi mới của họ như thế nào, chứ không thể đứng trong thời điểm hiện nay mà bàn luận, phê phán thế này thế khác được. Ngày nay, xem lại tranh của Ngọc Dũng, Duy Thanh, Thái Tuấn, nghệ thuật của họ cũng chỉ dừng ngang mức hậu ấn tượng, hoặc là dã thú, tượng trưng, siêu thực. Nhưng vào thời điểm đó người xem tranh chỉ mới loanh quanh với cái đẹp từ các tác phẩm được sinh sản từ trường Mỹ Thuật Đông Dương, ổn cố và chải chuốt với nghệ thuật ấn tượng là chủ yếu, thì những người nghệ sĩ ấy đúng là đã mang lại nhiều cái đẹp mới, đáp ứng với yêu cầu đổi mới của thời đại một cách mạnh mẽ và đúng mức.


     Ngọc Dũng và Thái Tuấn, Virginia, 1996
Chúng ta hãy trở lại với Duy Thanh. Duy Thanh bày tranh lần đầu tiên ở Sàigòn, trong một cuộc triển lãm chung với Ngọc Dũng, khoảng đầu năm 1956, ở phòng Thông Tin Đô Thành ở đường Tự Do. Đến tháng 3.1958, anh bày phòng tranh riêng của mình ở Cơ sở Pháp Văn Đồng Minh Hội, và đến tháng 5.1958, anh lại bày tranh chung với Thái Tuấn ở Văn Hóa Vụ đường Tự Do, với 80 tác phẩm sơn dầu và bột màu của cả hai họa sĩ. Màu sắc của Duy Thanh nhìn chung là chói chang và rực rỡ, gần với Matisse; đường nét thì rất mạnh, nhiều lúc khốc liệt như Vlamink. Không khí của Duy Thanh là những vệt màu và đường nét biểu cảm mạnh mẽ, sắt nét, táo bạo đến độ hồn nhiên, tạo nên một sự hấp dẫn mãnh liệt. Trong kỳ Triển Lãm Hội Họa Mùa Xuân Kỷ Hợi, 4 tấm tranh của Duy Thanh là Xuân, Bình Hoa, Tĩnh Vật với những mảng màu và nét hoang dại ấy quả là quá mới mẻ và táo bạo, đã mang lại một điều gì đó có tính chất báo hiệu về sự đổi mới của ngôn ngữ hội họa trong những năm sắp đến. Những năm về sau, Duy Thanh và Ngọc Dũng dường như đều muốn tiến về khuynh hướng biểu hiện. Trong nghệ thuật hiện đại, nghệ thuật biểu hiện dễ đạt được nhiều chia sẻ nhất với mọi người.

Cùng với Duy Thanh và Ngọc Dũng, Thái Tuấn đã có những đóng góp hết sức đặc biệt đối với sinh hoạt hội họa ở Miền Nam, tạo nên một dấu mốc quan trọng chung quanh điểm tựa lịch sử 1954. Khác với Duy Thanh và Ngọc Dũng, hội họa của Thái Tuấn giản dị và đạm bạc; là không gian rất thoáng, đôi lúc mênh mông, đường nét rất giản dị, và màu thì chủ yếu là xanh sậm, xanh xám, xanh rêu chuyển đổi theo sắc độ. Thái Tuấn đã tổng hợp tinh túy của nghệ thuật Á Đông và kỹ thuật hội họa Âu Châu, để vẽ nên những tấm tranh của mình. Có thể nói, đó là sự khoáng đạt của những chấm phá giản dị nơi nghệ thuật thủy mặc cộng với nghệ thuật sơn dầu của phương Tây. (7)


     Họa sĩ Tạ Tỵ, Phan Diên vẽ, 1998
Nhắc đến Duy Thanh, Thái Tuấn, Ngọc Dũng, chúng ta cũng tức thời nhớ đến Tạ Tỵ. Tạ Tỵ sinh năm 1921 ở Hà Nội, theo học Trường Mỹ Thuật Đông Dương năm 1938, ra trường năm 1943, đỗ đầu khi tốt nghiệp. Những năm dồi dào sinh lực thời trai trẻ và trung niên, ông đã tổ chức được 3 cuộc triển lãm cá nhân vào các năm 1952 ở Hà Nội; 1955 và 1960 ở Sàigòn. Người ta thường nhớ đến Tạ Tỵ vì tính cách mới mẻ của "lập thể Tạ Tỵ". Ông là người đầu tiên nghiên cứu và đưa không khí lập thể vào Việt Nam. Bị vây bủa bởi đường lối nghệ thuật này từng vang dội từ Âu Châu đầu thế kỷ XX, ông muốn sử dụng bút pháp này để xây dựng thế giới của mình, để tháo gỡ và đào sâu vào đối vật, làm thiên nhiên lệch lạc đi, phá vỡ tất cả những cách nhìn quen thuộc về sự vật để khám phá ra những khía cạnh mới mẻ, tạo được sự bỡ ngỡ và đưa người xem đến chỗ bất ngờ. Nhớ đến lập thể Tạ Ty, chúng ta cũng không thể quên Duy Liêm, bởi vì tiếng nói của Tạ Tỵ có tiếng vang trong một mức độ cao thuộc các tầng lớp trí thức, các giới hoạt động văn hóa nghệ thuật, thì Duy Liêm lại đưa được tiếng nói mới mẻ của nghệ thuật hiện tại phát triển trên bề rộng, đến với quần chúng khắp nơi. Duy Liêm rất thành công với "Lập thể Duy Liêm" trong đại chúng, xâm nhập mạnh mẽ vào trong cuộc sống hàng ngày của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt qua các minh họa nhan nhản trên các bìa nhạc của Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Hoàng Trọng, Nguyễn Hữu Thiết, Phạm Đình Chương, Trần Thiện Thanh..., và đặc biệt hơn nữa, trên vô số mẫu vẻ thực hiện trên các sản phẩm mỹ nghệ của xưởng sơn mài Thành Lễ, mà những thứ sản phẩm này thì đúng là đã lan tràn khắp nước, rất quen thuộc với quần chúng Việt Nam.


     Họa sĩ Nguyên Khai
Sau những phòng tranh gây được nhiều hứng khởi chung của Tạ Ty, Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, hội họa hiện đại Sàigòn phát triển mạnh mẽ trong ngôn ngữ chung của nền hội họa khắp thế giới.
Tiến vào nền nghệ thuật mới, cuộc Triển Lãm Hội Họa Mùa Xuân Giáp Thìn, 1964, do Văn Hóa Vụ tổ chức ở nhà Hát Lớn Sàigòn là một cột mốc đáng kể. Có 583 họa phẩm sơn dầu do hơn 200 họa sĩ khắp nơi gửi về tham dự, đáng lưu ý nhất là các khuôn mặt trẻ với những đường nét và màu sắc linh động, mạnh mẽ, đa dạng, đã tạo được một bầu khí tươi mát, rạng rỡ, đầy chất sáng tạo. (8) Phòng tranh này đã gây được nhiều dư vang trong cuộc sống tinh thần của đất nước chính phần nào cũng là nhờ ở sự thúc đẩy của Hội đồng giám khảo cuộc triển lãm, cổ xúy cho cái mới, hỗ trợ cho những tiếng nói trẻ táo bạo, với Chủ tịch hội đồng là Thái Tuấn và 4 thành viên khác trong hội đồng: Văn Đen, Hiếu Đệ, Lưu Đình Khải, Nguyễn Sao.


     Họa sĩ Nguyễn Đồng và Nguyễn Thị Hợp, Paris, 1982
Có thể nói là một sự bùng nổ của nghệ thuật mới bắt đầu được khơi dậy. Và rồi thì, những trường phái nghệ thuật lớn đều trở thành nơi thử thách của các họa sĩ trẻ, từ lập thể, dã thú, biểu hiện, đến siêu thực, trừu tượng, vô hình dung, tân hiện thực. Phải kể đến những nghệ sĩ trẻ qui tụ chung quanh nhóm nghệ thuật tiền phong của Sàigòn là Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam: Trịnh Cung, Đinh Cường, Nguyên Khai, Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Đỗ Quang Em, Nghiêu Đề, Lê Tài Điển, Cù Nguyễn, Nguyễn Phước, Hồ Hữu Thủ, Mai Chửng, Dương Văn Hùng, Nguyễn Lâm, Nguyễn Đồng, Hoàng Ngọc Biên, Ngy Cao Uyên, Rừng. Cũng phải kể đến một số nhà tạo hình khác nữa, không ở trong Hội Hoạ Sĩ Trẻ, nhưng cũng nằm trong trào lưu chung như Vị Ý, Lê Ngọc Huệ, Vĩnh Phối, Tôn Thất Văn, Hiếu Đệ, Đỗ Mai Lan, Trương Đình Quế, Lê Thành Nhơn, Huy Tường, Nguyễn Thanh Thu, Đặng Hoài Nam, Nguyễn Quỳnh, Cao Bá Ninh, Phạm Hoán, Lâm Triết, Trịnh Hữu Định, La Hon, Hồ Nguyễn, Nguyễn Trọng Khôi, Duy Liêm, Huỳnh Kim Ngọc, Trần Vạn Lộc, Nguyễn Hữu Nhật, Thái Lãng, Đỗ Trọng Nhơn, Đằng Giao.
Riêng về trường hợp Nguyễn Quỳnh, cũng cần nói: ông là một trong những sáng lập viên đầu tiên của Hội Họa Sĩ Trẻ, nhưng không hiểu vì sao sau đó đã rút ra khỏi hội.

Những trường phái nghệ thuật lớn với ngôn ngữ mới mẻ nhất như là một tiếng gọi mãnh liệt đối với tuổi trẻ. Nhãn quan truyền thống cần phải được thay thế bằng một cách nhìn khác để có thể thích ứng với thế giới mới, một thế giới đã đổi thay rất nhiều vì nền khoa học hiện đại với những phát minh tối tân đã tràn ngập khắp nơi. Những bậc thầy của hội họa thế giới đến với tuổi trẻ làm nghệ thuật Việt Nam: Gauguin, Matisse, Van Gogh, Picasso, Miro, Chagall, Mondrian, Modigliani, Dufy, Kandinsky, Klee, Braque... Thế giới màu sắc và đường nét nở rộ tưng bừng trong nhiều bút pháp. Hai đường lối gây nhiều ảnh hưởng lớn nhất trong thời kỳ này là Modigliani và Paul Klee dù rằng rất khác biệt nhau nhưng lại chính là hai điểm nối kết lớn của nền hội họa mới.


     Họa sĩ Nguyễn Quỳnh, 2006
Đề cập đến khuynh hướng chịu ảnh hưởng nghệ thuật của P. Klee, chúng ta có thể liên tưởng ngay đến Nguyễn Quỳnh như một điển hình rất đặc biệt. Tranh của Nguyễn Quỳnh bàng bạc khắp nơi, từ điểm cực nhỏ đến bầu khí tổng thể, những tiếng vọng của Klee. Khởi nguồn chính là tư duy tạo hình học hỏi trên tư duy tạo hình của Paul Klee. Nếu tôi nhớ không nhầm thì trong một buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn Hóa Đức, đề tài của Nguyễn Quỳnh là "P. Klee và tôi". Và mới đây, khi nhìn lại nền Hội họa Việt Nam hiện đại, Nguyễn Quỳnh đã tự đánh giá chính mình: "Có người lủi thủi và trốn tránh một mình như trường hợp Nguyễn Quỳnh, để học hỏi cả hai lĩnh vực: Sáng tạo và tư duy, từ Klee qua Kandinsky, qua Miro, qua Pollock, qua Picasso của thời lập thể tổng hợp, và vươn tới cả Op Art. Những nổ lực đơn điệu này xem ra không thích hợp với nghệ thuật Việt Nam". (9)

Lời tự nhận xét này khá chính xác. Nguyễn Quỳnh có một tư duy tạo hình rất sâu, vẽ thành tranh thì rất đẹp, rất nhuần nhuyễn vì sự chế ngự kỹ thuật vô cùng vững chắc. Vậy nhưng những phòng tranh của ông bày ở Goethe-Institut trên đường Phan Đình Phùng, hoặc là cuộc triển lãm rất đồ sộ bày ở Thư Viện Quốc Gia khoảng năm 1974 hay đầu năm 1975 gì đó, đã không tạo được sự hấp dẫn đối với thưởng lãm.

Nguyễn Quỳnh là một trong những sáng lập viên đầu tiên của Hội Họa Sĩ Trẻ, nhưng sau một thời gian ngắn, đã rút ra khỏi hội. Ông giải thích là vì nhiều khó khăn của thời chiến khiến ông phải xin ra khỏi hội. (10)
Nguyễn Quỳnh hiện nay là giáo sư về thẩm mỹ học và lịch sử mỹ thuật ở Trường San Antonio College, Texas. Ông là họa sĩ Mỹ gốc Á Châu đầu tiên có tranh được tuyển chọn vào bộ sưu tập của Nhà Bảo Tàng Guggen-heim ở Nữu Ước; ông cũng bày tranh thường xuyên ở Columbus Art Gallery, New York City.


     Họa sĩ Trịnh Cung trên đường phố New York, 1997
Ghi nhận tiếp về các khuôn mặt khác, những họa sĩ trẻ đã thực sự góp phần tạo nên bầu khí nghệ thuật trẻ trung, đầy sức sống và rất hiện đại. Chúng ta quan tâm đến Trịnh Cung và Đinh Cường, mấy năm đầu thập niên '60, hai người đã có nhiều gắn bó, gần gũi nhau trên diễn biến tư tưởng nghệ thuật cũng như trong sinh hoạt mỹ thuật ngoài xã hội.

Bước đầu, ở cả hai đều đượm một không khí lãng mạn xanh pha lẫn giữa Chagall, Modigliani và Klee, rồi dần dà mỗi người ngả theo một con đường riêng, tạo nên những dấu ấn sâu đậm giữa nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Màu sắc của Trịnh Cung mặc dù đạm bạc, tiết chế nhưng vẫn tràn đầy một không khí thơ mộng không cùng. Đường nét và hình ảnh của anh không vụ vào những chi tiết nhỏ, mà thường là những mảng lớn rất phóng túng, hào hoa, và rất thanh nhã. (11)

Về Đinh Cường thì từ 40 năm trước, bước vào thế giới của sắc màu và đường nét, anh đã xây dựng ngay được một vũ trụ nghệ thuật riêng của mình. Bước đầu, bị hấp dẫn với thế giới trừu tượng, rồi sau nột thời gian dài theo đuổi những giấc mơ trôi nổi giữa nền nghệ thuật này Đinh Cường lại chuyển hướng để trở về với nghệ thuật tượng hình, với những hình ảnh quen thuộc giữa Nội thành Huế, hay với rừng núi Đà Lạt, Di Linh, Đơn Dương, với nỗi ám ảnh đất đá rêu phong, tường thành cũ. lau lách đìu hiu, những dáng ngựa trắng và những con chim lạ, những chùm bông lạ, tất cả đã hợp nhau lại để tạo nên một thế giới kiểu cách của riêng anh, rất thơ mộng, rất đài các trong cái cõi tịch lặng riêng, rất Huế và rất Đinh Cường.


     Họa sĩ Đinh Cường
Đinh Cường tái định cư ở Mỹ năm 1989. Vẫn với cung cách sống và phong cách nghệ thuật đã định hình từ nhiều năm về trước, anh tiếp tục làm nghệ thuật trên đất Mỹ theo cách của anh. Sống đời lưu vong mà tiếp tục làm được nghệ thuật đã là một điều đáng kể, may mắn và hạnh phúc lắm rồi! Còn bao nhiêu chuyện khác thì cứ để trôi chảy tự nhiên, cái gì đến sẽ đến. Đinh Cường làm việc rất đều tay, mới đến Hoa Kỳ có mấy năm, đã tổ chức được 5 cuộc triển lãm. Năm 1989 ở Mc Lean, Virginia; Năm 1991 bày tranh ở Georgetown Art Gallery, Washington, D.C.; Năm 1991 ở Le Jardin du Boisé, Montréal, Canada; Năm 1993, lại bày tranh ở Mc Lean, Virginia; và một phòng tranh khác năm 1994 ở Metro Gallery, Đại học George Mason, Virginia. Cuộc triển lãm gần đây nhất của Đinh Cường, bày chung với ba nghệ sĩ Nhật Bản (nữ họa sĩ Akemi Ohira và hai nhà tạo hình vẽ gồm: Ester Ikéda và Yoshiro Ikeda) ở phòng triển lãm Springfield Art Association Gallery, Illinois. Cuộc trưng bày này mang một tựa đề chung: Lịch nghiệm phương Đông, Biểu hiện phương Tây (Oriental Experience, Occidental Expression), từ 4 tháng 3 kéo dài đến ngày 22 tháng 4 năm 2000.

Tính cho đến năm 1994, cả trong và ngoài nước Đinh Cường đã bày tranh riêng một mình được mười sáu lần, bày tranh chung với các tác giả khác mười một lần, đã được phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa chọn tranh để tham dự triển lãm tại Museé d'Art Moderne, Paris từ 28.9 đến 3.11.1963 và tại các nước Tunisie, Brasil, Ấn Độ, Nhật Bản, Hoa Kỳ.

Đinh Cường sinh năm 1939 ở Thủ Dầu Một, tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế năm 1963, dạy hội họa ở trường nữ trung học Đồng Khánh Huế từ 1963 đến 1967; dạy Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế từ 1967 đến 1975. Là tổng thư ký Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam 1969- 1971, Đinh Cường cũng đã từng đoạt được huy chương bạc Hội Họa Mùa Xuân hai lần liên tiếp năm l962, 1963. (12)


     Họa sĩ Rừng, Sàigòn, 1991
Mỗi khuôn mặt trong Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam là một thế giới riêng, một phong cách riêng, với đường nét và màu sắc riêng.
Như với họa sĩ Rừng, một thời kỳ dài trước năm 1975, luôn luôn đập vào mắt người xem những hình ảnh dữ dội, đẩy ta trở lại đối mặt với những gốc rễ nền tảng nguyên thủy. Những gốc rễ ăn sâu vào trái đất của nhục dục mà đâm chồi, nẩy nụ những cành lá xanh tươi siêu hình. Rừng thích Dali và Chagall; nghệ thuật của anh có nhiều tính cách thơ mộng và quái dị mà anh đã nghiệm ra từ hai bậc thầy này, dĩ nhiên đã tinh lọc hoàn toàn qua cách nhìn của một nghệ sĩ Việt Nam.

Trong khi ấy, tranh Nguyên Khai thì đầy chất thơ, pha lẫn giữa thần thoại và hiện thực của cuộc đời. Đây là thơ được dựng lại bằng sắc màu trên nền bố và giá vẽ, luôn luôn vương giả, yêu kiều, và quí phái như phong cách của anh từ nhiều thập niên qua.

Một người làm tranh khác cũng rất thơ mộng là Hồ Thành Đức, tuy nhiên, đó là thứ thơ mộng hiện ra dưới một hình thái buồn thảm, cô quạnh, và phần nào hơi tan vỡ, nứt rạn. Hồ Thành Đức không vẽ sơn dầu mà làm tranh collage, dán giấy. Khó cắt nghĩa chính xác tại sao trên tranh Hồ Thành Đức lại nhuốm đầy vẻ bi thảm, hoang mang, và ác mộng. Nhưng ít nhiều chúng ta cũng đã biết đến những ám ảnh khắc nghiệt vào thời tuổi thơ của họa sĩ, cùng những dằn vặt của thời tuổi trẻ, và sau cùng là tuổi trưởng thành trên một đất nước mà chiến tranh đang đè nặng như một định mệnh tàn khốc. Hẳn rằng tất cả những yếu tố ấy đã hợp nhau lại để dựng thành một thế giới bi thảm riêng tư.


     Họa sĩ Hồ Thành Đức
Với Hội họa Miền Nam trước năm 1975, tranh Hồ Thành Đức khá đặc biệt với kỹ thuật dán giấy của anh. Sau nhiều năm làm việc, thử thách với hình thức hội họa này, anh đã đạt được nhiều thành công đáng kể, chinh phục được công chúng thưởng ngoạn cũng như anh em sáng tác cùng giới. Phòng tranh bày vào tháng 5.1970, ở phòng triển lãm quen thuộc Pháp Văn Đồng Minh Hội (Alliance Francaise), đã để lại những ấn tượng tốt đẹp về một đời sống nghệ thuật sâu sắc và một kỹ thuật đã được thủ đắc một cách vững chắc. Phòng tranh này hầu như đã đưa người xem tiếp xúc và gặp gỡ một bầu khí chung khá buồn thảm, với sắc độ lạnh lẽo khắp nơi. Xanh xám, đen nâu pha trộn vào nhau, pha cùng với màu nâu sậm, màu chỉ của bầu trời đầy mây tối: Cảnh vật bị đè nặng dưới sức ép của bạo lực và kinh hoàng, trầm lắng dưới những khối màu ảm đạm. Một nỗi buồn bã, trống trải, tan rã giữa một thời đại gẫy đổ, nứt rạn, chia cách, phân hóa. Những con người hiện ra đang tê cứng và biến dạng, để trở thành một thứ đá im lìm, u uất, bất động mà bao nhiêu tiếng gào, bao nhiêu nỗi căm phẫn đều dồn vào bên trong.

Những năm về sau này, có lẽ tâm cảnh cũng biến chuyển theo với thời thế bên ngoài, khi chuyển qua giai đoạn thực hiện tranh sơn mài, khi căn nhà của Bé Ký - Hồ Thành Đức ở 78bis Điện Biên Phủ (tức Phan Thanh Giản cũ) thực sự trở thành một xưởng sơn mài đáng chú ý ở Sàigòn, thì tranh của Hồ Thành Đức đã vui tươi hơn nhiều, những nành vẽ trong collage trước đây càng làm cho sơn mài của Hồ Thành Đức sâu hơn và gợi cảm hơn. Tranh sơn mài của Hồ Thành Đức được sản xuất hàng loạt, không kịp đủ để bán, rồi theo các chuyến tàu, các người chơi tranh, các nhà sưu tập mà đi khắp thế giới. Bức Chân dung Chúa treo ở phòng khách lớn Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Ba Lê, được nhiều người chiêm ngắm và cảm xúc. Nhà Bảo Tàng Nghệ Thuật Thái Bình Dương, Warsaw, Ba Lan, năm 1984, đã chọn bức sơn mài Mẹ Âu Cơ của Hồ Thành Đức để giữ trong bộ sưu tập thường xuyên. Tranh Hồ Thành Đức có trong nhiều bộ sưu tập riêng ở Pháp, Canada, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Đức, Thụy Sĩ... Có lẽ cũng nên biết thêm: Hồ Thành Đức là giảng viên Mỹ Thuật Trường Đại Học Vạn Hạnh từ 1969- 1975, và năm 1974 cho đến 30.4.1975, đặc trách ban Mỹ Thuật áp dụng của Trường Đại Học Phương Nam vừa thành lập, đang dự định sẽ tổ chức thành một phân khoa mỹ thuật thì biến cố 30.4 xảy đến, chấm dứt hẳn dự án ấy.


     Họa sĩ Nguyễn Phước
Nhóm Hội Họa Sĩ Trẻ là một tập hợp những bảng màu kỳ lạ và tuyệt đẹp của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại.Nguyễn Phước là một trong những khuôn mặt rực rỡ trong đó. Nguyễn Phước có nhiều biến chuyển, đi qua nhiều thời kỳ, đi từ cực này đến cực khác và ở điểm nào anh cũng đạt được những thành tựu lạ lùng. Đi từ hội họa có hình đến trừu tượng, vô thể, rồi cho đến nay anh đi đến một bút pháp, kiểu cách rất lạ, đưa những mảng ánh sáng của nghệ thuật thời phục hưng vào thế giới của thời ấn tượng, rồi những màu hồng, lục, đỏ tươi chói chang đã trầm xuống và thủy tràn qua, bao trùm lên trên toàn thể. Đó là một thế giới giản dị, bình thường, ví dụ là hình ảnh những thiếu nữ đài các, thanh tú với dáng dấp của thời 1930-1945, nhưng càng nhìn ngắm kỹ mới càng nhận ra cái công phu, nghiêm cẩn, rất tinh tế, nhuần nhuyễn, mịn màng. (13)

Cùng với Nguyễn Phước, có một thời Cù Nguyễn cũng rất được chú ý, mặc dù anh sớm bị quên lãng vì không giữ sức sống nghệ thuật cho được dài hơi. Về thời kỳ nghệ thuật đẹp đẽ của Cù Nguyễn, Nguyễn Trung đã từng ghi nhận: "Cù Nguyễn với không khí thâm trầm, tạo bằng nền thường là nâu sậm, với những hình thể vỡ tan của một thế giới đầy bất trắc, được tô bằng những màu trong suốt, óng ánh. Khoảng năm 1962 về trước, Nguyễn theo đuổi khuynh hướng tượng hình, những hình thể với đường viền đậm và màu xám, hồng lục đắp dày. Trong vòng 10 năm sau cùng, Nguyễn khám phá ra Bissier, bị hấp dẫn bởi kỹ thuật tô màu của họa sĩ này rồi tạo được đường nét riêng của mình." (14)


     Họa sĩ Cù Nguyễn, Sàigòn, 1972
Năm 1961, mới 23 tuổi, Cù Nguyễn đạt được huy chương vàng Triển Lãm Hội Họa Mùa Xuân với tác phẩm Chân dung thiếu nữ. Rồi năm 1964, anh được tặng huy chương đồng Triển Lãm Hội Họa Mùa Xuân Giáp Thìn cho tác phẩm Trăng, Chim và Hoa. Trên đường dong ruổi tìm kiếm cái đẹp, quan điểm của Cù Nguyễn tương đối phóng khoáng, có lẽ chính vì vậy mà anh đã bắt gặp nhiều điều mới mẻ rất sớm. Ý kiến này của anh phản ảnh được nhiều phần cách nhìn riêng biệt cũng như thế giới riêng tư của anh: "Tại sao anh cho rằng tranh tôi đẹp, rồi anh lại đi tìm những tiểu tiết mà anh lại cho là xấu kia làm gì. Làm như vậy là anh đã vô tình để lộ sự gò bó của chính anh, anh đã quá tuyệt đối mà sự tuyệt đối thường đẩy anh rơi vào những công thức, ước lệ máy móc..." (15)
Đáng tiếc là Cù Nguyễn nổi danh sớm nhưng đã không phát triển được sự nghiệp nghệ thuật đúng mức như sự trông đợi của mọi người.

Giữa những khuôn mặt của Hội Họa Sĩ Trẻ Đỗ Quang Em nổi bật vì chất nghệ thuật hiện thực của anh. Lúc ban đầu, cuối thập niên '60 và đầu '70. Đỗ Quang Em có phần gần Nguyễn Trung, chú ý đến ánh sáng và sự tương phản clair-obscur, nhưng chỉ một thời gian ngắn, anh đã tìm ra được một đường lối hoàn toàn riêng của mình, cũng là sáng-tối nhưng để nói về một sự thực nằng nặng của cuộc đời, của nhân sinh, của bản năng, của những màu đất thó, đất nung, của màu nâu chìm xuống, ngược lại với Nguyễn Trung thì nhẹ nhàng và bay bổng lên với màu xanh, màu lục, với ánh sáng nhẹ nhàng, thơ thới.

Tỉa vẽ chi li, công phu, dựa vào nguyên tắc ánh sáng và bóng tối thì có lẽ chỉ cần tập luyện nhiều thì ai cũng làm được. Nhưng vấn đề không phải chỉ là như vậy, mà là cách nhìn, là nội tâm của người nghệ sĩ. Trong giòng nghệ thuật cổ điển, từ thời Phục Hưng đến nay, đặt tranh anh bên cạnh các tác giả khác, chúng ta thấy ra ngay một thế giới riêng của Đỗ Quang Em, đó chính là đóng góp lớn và đặc biệt của anh vào nghệ thuật thế giới từ nghệ thuật hiện thực Việt Nam.


     Họa sĩ Đỗ Quang Em và Nhà phê bình hội họa Huỳnh Hữu Ủy, California, 8-2003. Nguồn: Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại (Huỳnh Hữu Ủy, VAALA, 2008)
Có thể là mòi ví dụ là bức Tỳ Bà của Đỗ Quang Em bày trong cuộc triển lãm Từ Hai đầu Đại dương xa cách: Tác phẩm của nghệ sĩ Việt Nam hiện đại đang sinh sống trên đất Mỹ và từ trong nước (An Ocean Apart: Contemporary Vietnamese Art From The United States and Vietnam) do Viện Smithsonian tổ chức năm 1995. Bức tranh này đã nổi bật rất mạnh vì một không khí của thực rất thơ mộng và huyễn hoặc. Chiếc đàn Tỳ Bà và cái áo dài để trên chiếc chõng tre chiếm khoảng chừng một phần ba không gian tấm tranh, tất cả còn lại là khoảng trống. Khoảng trống và sự vật đều rất sống động dưới ánh sáng đang rạng chiếu. Dưới công phu chi li của cây cọ Đỗ Quang Em, thế giới tầm thường chung quanh đã trở nên bí ẩn, có hồn và lên tiếng bằng thứ ngôn ngữ tĩnh lặng của mình; Sự vật nói chuyện mà những không gian trống vắng càng nói chuyện thiều hơn.

Không phải chỉ là cảm nhận và ghi chép thực tại của một thứ nghệ thuật tự- thiên chủ nghĩa, mà là qua quá trình tìm tòi, suy gẫm, lọc lại một thực tại với tất cả vẽ rực rỡ bên ngoài mà vẫn đạt tới chiều sâu thẳm bên trong. Đó là nghệ hoạt của các nhà tân hiện thực, hay nói cho chính xác là cực thực, hyperréaliste, gần gũi với nhiếp ảnh nhưng hoàn toàn khác xa nhiếp ảnh, chỉ cách nhau một đường tơ nhưng là hai thế giới ngoài nhau hoàn toàn. Đối vật trong tranh Đỗ Quang Em hiện ra rất thực nhưng luôn luôn là bí mật, tạo nên một vẻ gì hư ảo vượt ra bên ngoài thực tại, dễ gây nên cảm giác về một điều gì đó rất quạnh hiu nhưng là một thứ quạnh hiu bất tử. Đó chính là cài huyễn hoặc mà cũng là huyền hoặc của nghệ thuật hiện thực Đỗ Quang Em. Tôi muốn lập lại ở đây một cụm từ mà cũng là khái niệm tôi đã sử dụng nhiều lần khi viết về Đỗ Quang Em: cụm từ Tân-hiện-thực-Đỗ-Quang-Em.

Đề cập đến các họa sĩ của Hội Họa Sĩ Trẻ, cũng cần đặc biệt lưu tâm đến Nguyễn Lâm và Hồ Hữu Thủ bởi vì đây là hai họa sĩ chuyên tâm về sơn mài, nâng cấp sơn mài trên một tầm cao, đưa chất liệu và kỹ thuật sơn mài truyền thống đến với nền nghệ thuật hiện đại, cống hiến nhiều cái đẹp rực rỡ, góp phần tạo nên một bầu khí và phong cách của nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Dĩ nhiên, vào thuở bàn đầu đến với mỹ thuật, cả hai đều vẽ sơn dầu, rồi mới dần dà bước qua sơn mài.
Trước 1975, Hồ Hữu Thủ đã vẽ sơn mài, Nguyễn Lâm thì về sau này, khoảng giữa thập niên '80 mới tìm đến với chất liệu này và càng về sau anh càng như dứt khoát sống với nghệ thuật sơn mài. Ngày nay, nói đến sơn mài hiện đại miền Nam, chúng ta phải nói ngay đến Nguyễn Lâm và Hồ Hữu Thủ.


     Họa sĩ Nguyễn Lâm
Nguyễn Lâm tên thật Lâm Huỳnh Long, sinh năm 1941 ở Cần Thơ. Tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Sàigòn năm 1965, rồi giảng dạy ở trường này cho đến năm 1975.
Nguyễn Lâm là một trong những khuôn mặt hội họa trẻ nổi bật rất sớm ở Sàigòn: Anh đã từng đạt được huy chương bạc Triển Lãm Hội Họa Mùa Xuân ]962, bằng danh dự Đệ Nhất Mỹ Thuật Quốc Tế ở Sàigòn năm 1962, rồi huy chương đồng triển lãm hội họa Công Giáo năm 1967. Từ năm 1963 đến 1972, đã tổ chức 7 cuộc triển lãm cá nhân ở Sài gòn và Tân Gia Ba. Đã tham dự nhiều cuộc triển lãm tập thể trong và ngoài nước như: Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế Lưỡng Niên tại Paris năm 1961 và 1963, Triển Lãm Kuala Lumpur 1963, Tân Đề Li 1965, Nhà Việt Nam ở Paris 1979 và 1993, Triển Lãm Mandarin, Singapore năm 1992, Triển Lãm tại Notices Art Gallery, Singapore năm 1992, Triển Lãm New Space ở Singapore năm 1993...

Mặc dù trải qua nhiều thời kỳ, hội họa Nguyễn Lâm biến chuyển rất ít. Vào những năm đầu của thập niên '60, như một nhật xét của Nguyễn Trung, anh thường sử dụng hai màu vàng, cam chen lẫn trên tấm nền sâu tối của màu đen, để mô tả thế giới của những người lao động nghèo khổ. Chuyển qua một thời khác, cũng chỉ là gam màu u tối, màu vàng và cam đã trở thành hồng, lục pha xám để rạng chiếu mờ ảo trên những cảnh trí bán trừu tượng. Và đến ngày nay, anh vẫn chậm chạp di động giữa những màu sắc thăm thẳm và u tối ấy, anh lại nắm được thêm một lợi thế mới là chất liệu sơn mài, rất phù hợp với thế giới ẩn mật của anh. Hai bức Cấu trúc I và Cấu trúc II bày trong cuộc triển lãm An Ocean Apart: Contemporary Vietnamese Art from the United States and Vietnam trông rất bí ẩn, tạo được nhiều ảo giác về chiều sâu với một bố cục bề mặt khá chặt chẽ.

Nguyễn Lâm đã phác họa về hành trình và sinh mệnh nghệ thuật của mình: "Vẽ là một quá trình hình thành và hủy diệt. Sự sáng tạo không cho phép người nghệ sĩ lập lại chính mình. Đó là một hành trình luôn đổi mới với lòng đam mê, khao khát hướng tới cái đẹp. Và chỉ trong lúc làm việc thì điều đó mới có ý nghĩa. Đôi khi ta tưởng rằng mình sắp đạt đến mục đích nhưng thật sự chỉ là một mục tiêu rất nhỏ trong cái Đẹp vĩ đại và xa vời." (16)
Nguyễn Lâm nói rất đúng, anh không lập lại chính mình, nhưng anh chuyền biến rất chậm, và ngày nay anh đang di động giữa những bố cục trừu tượng với các mảng màu ấm cúng đỏ son, cánh dán, xanh lam, đen nâu, và trắng ngà của vỏ trứng. Chất liệu và các màu sơn ta ấy đã như là một vùng đất hoang vu hoang dại, và sâu thẳm, mặc sức cho Nguyễn Lâm khai phá, tìm kiếm, hít thở và sống.


     Họa sĩ Hồ Hữu Thủ
Chúng ta đề cập tiếp về Hồ Hữu Thủ. Khoảng năm 1970, tranh Hồ Hữu Thủ thường được ghi nhận là có nhiều gần gũi với Nguyễn Trung, về bố cục, màu sắc, và ánh sáng. Nhưng căn bản thì vẫn là hai thế giới khác biệt: tranh Nguyễn Trung là một cái đẹp khô (sèche beauté) thì ngược lại nơi Hồ Hữu Thủ là một cái gì đó vô cùng tươi mát, mềm mại.
Ngoài sơn dầu, Hồ Hữu Thủ còn thực hiện nhiều tranh mộc bản và sơn mài. Anh là một trong những họa sĩ trẻ hiếm hoi đầu tiên tại miền Nam sau thời kỳ 1954 chuyên sâu về sơn mài, tiếp tục truyền thống sơn mài của các họa sĩ xuất thân từ Trường Mỹ Thuật Đông Dương, mà cùng lúc lại biết vận dụng cách nhìn mới trong những phát biểu rất hiện đại.

Vẽ nhân vật, sự vật, và thiên nhiên với thủ pháp ánh sáng: sáng-tối, âm bản-dương bản. Vẽ như thế mà không hoàn toàn là một sao chép hiện thực, lại có nhiều chất tượng trưng, nên thế giới của Hồ Hữu Thủ không phải bị ràng buộc với thực hữu, mà như đã bay bổng lên, hoặc cũng có thể đã nhập vào một cõi vô thức nào. Có lẽ đó chính là khuynh hướng của Hồ Hữu Thủ; cuộc hành trình đã vẽ ra và muốn chuyển động trên sự định hướng đó, để đi tìm cái đẹp. Vì có lần anh đã nói: "Với tôi sự thật không có ở thế giới bên ngoài, mà chỉ có ở thế giới vô thức, huyền thoại, của nội tâm vô cùng mẩn cảm, ở đó mới sáng tạo ra thế giới mới hơn, rực rỡ hơn." (17)

Nhiều tranh của Hồ Hữu Thủ của những năm sau này đã nhập hẳn vào thế giới trừu tượng, mang lại cho chúng ta một cái đẹp rất kỳ diệu, rực rỡ, rất ấm áp nồng nàn. Hãy thử lấy một ví dụ, bức Khúc Đông Phương 1 bày năm 1994 ở cuộc triển lãm chung với Trịnh Cung, Đỗ Quang Em, Nguyễn Lâm, Nguyễn Phước và Nguyễn Trung, với một bảng màu đỏ son là chính yếu, rồi ở trong đó là những mảng màu đen, những vệt màu vàng đất, màu nâu, điểm vào những vệt rạn nứt trắng ngà. Cái sâu thẳm của bố cục đã chập chùng với cái sâu thẳm của màu, tất cả đã hợp nhau lại để dẫn chúng ta đến một cảnh giới rất kỳ lạ của cái đẹp, vô cùng, vô tận.

Có lẽ cũng nên biết thêm đôi nét về tiểu sử Hồ Hữu Thủ. Anh tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật Gia Định năm 1963, rồi từ năm 1971 đến 75 là giáo sư ở trường này. Năm 1963-l974: bốn lần triển lãm cá nhân. Năm l967-1974: tham dự triển lãm thường niên của Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam. Năm 1992: tham dự triển lãm Art & Material 92 ở Gallery mỹ thuật thuộc Bảo Tàng Quốc Gia Singapore cùng năm nay, anh bày tranh ở Asian Masters Gallery BHD (Mã Lai).

- Năm 1993: Tham dự triển lãm New Space của các họa sĩ Việt Nam và Singapore. Với cuộc triển lãm tập thể không gian mới này, Việt Nam có 19 họa sĩ tham dự cùng với 20 họa sĩ Tân Gia Ba.
- Năm 1994, cùng với Nguyễn Lâm, Thọ Văn, và Đào Trọng Lưu, Hồ Hữu Thủ bày tranh ở Trung tâm Văn hóa Espace Jacques Prévert ở thành phố Aulnay-sous-Bois thuộc ngoại thành Paris.
- Cũng vào dịp viếng thăm nước Pháp năm 94, Hồ Hữu Thủ và Nguyễn Lâm đã cùng với các họa sĩ Việt Nam đang sống ở Pháp: Thái Tuấn, Nguyễn Cầm, Lê Tài Điển và Philippe Franchini (nguyên giám đốc Galerie Dolce Vita ở Sàigòn trước 1975) mở cuộc triển lãm tập thể dưới tên gọi chung Gốc Rễ (Racines) ở Galerie Bellint, 28 bis Bd. de Sébas-topol, 7500 Paris, sát cạnh Trung Tâm Văn Hóa G. Pompidou, từ ngày 7 đến 30 tháng 7.1994. Cuộc triển lãm ngày khai mạc cùng lúc với 11 phòng triển lãm khác ở Paris, do các nghệ sĩ đến từ các quốc gia nói tiếng Pháp, trong dịp Liên Hoan Văn Hóa Thể Thao các nước nói tiếng Pháp.

- Một sự kiện nữa cũng đáng lưu ý: Hồ Hữu Thủ là một trong 4 họa sĩ ở Sàigòn (Hồ Hữu Thủ, Trịnh Cung, Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung) và các họa sĩ Hà Nội Đỗ Sơn, Trần Lưu Hậu, Nguyễn Tư Nghiêm, Đặng Thị Khuê, Nguyễn Quân được tuyển chọn để giới thiệu trong công trình lớn 100 họa sĩ nền tảng của Đông Nam Á (Southeast Asian Art: A New Spirit) do Nhà Bảo Tàng Singapore chủ trương vào năm 1997.


     Họa sĩ Nguyễn Trung
Khuôn mặt cuối cùng của nhóm Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Namđược ghi nhận ở đây là Nguyễn Trung, có lẽ là một trong những họa sĩ có nhiều cá tính, tài năng và trí tuệ bậc nhất của giai đoạn vừa qua.
Vào thời kỳ đầu tiên, Nguyễn Trung cũng đã ít nhiều thử thách với hội họa trừu tượng, thứ trừu tượng lãng mạn, abstraction lyrique, với những đường nét tinh lọc đến cùng cực những chim, nai, đồi cây, hoa, thiếu nữ... ẩn hiện gợn lên trên nền tranh với hòa sắc lạnh, nhưng chỉ vài năm sau thì bỏ hẳn để xây dựng cho mình một thế giới hết sức cá biệt, dầu vẫn bị ràng buộc trong những phạm trù của một thứ nghệ thuật tượng hình.
Khoảng năm 1965-66, ngôn ngữ riêng của Nguyễn Trung đã định hình. Rõ ràng là có nghiên cứu và chịu ảnh hưởng sâu đậm một số nguồn gốc nghệ thuật nào đó, ví dụ là Henri Rousseau và một số tiểu họa phẩm là bích họa Ấn Độ và vùng Trung Cận Đông. Thêm vào đó, Nguyễn Trung giải thích là anh chịu ảnh hưởng tính cách và màu sắc đạm bạc của thủy mặc Trung Hoa và sự khắc khổ của hội họa Đức.(18) Như vậy, thực là dễ hiểu tại sao trong tranh Nguyễn Trung luôn luôn tỏa ra một không khí vô cùng thơ mộng mà pha nhiều chất đắng và khô.

Nguyễn Trung sử dụng nguyên tắc về bóng tối và ánh sáng, một nguyên tắc chủ yếu từ thời nghệ thuật Phục Hưng mà những Leonardo da Vinci, Rembrandt, Raphael, Van Vermeer đã rất chú tâm dụng đến. Ánh sáng tỏa chiếu trên sự vật, bị che lấp gây nên bóng tối, ngay trên từng vật thể, dù rất nhỏ, trên từng hòn sỏi, từng cánh hoa, ngọn lá, hay trên từng đường nhăn của chiếc áo thiếu nữ. Nhưng đó chỉ có vấn đề nguyên tắc về kỹ thuật, cái quan trọng là việc sử dụng kỹ thuật ấy vào trong tranh. Chúng ta đã được tận hưởng một thế giới lấp lánh lạ lùng của Nguyễn Trung, với khuôn mặt thiếu nữ, con cá loang loáng ánh bạc dựng đứng lên, những dụm cát, những đợt sóng, những cồn đá v.v... và v.v... Tất cả đều rất hiện thực mà cũng như rất mơ hồ. Điều ấy có được đều là do thủ pháp ánh sáng và màu sắc xanh xám, xanh lục đạm bạc trong cách nhìn của Nguyễn Trung đưa lại. Đó là một cách nhìn qua nhiều chất mộng ảo, luôn luôn bay bổng lên và rất ít khi bị sự trì trệ kéo xuống.

Hiện nay, sau khi đi qua nhiều thời kỳ, Nguyễn Trung có vẽ như đang muốn trở lại với hội họa trừu tượng.
Hội họa trừu tượng vẫn là một cám dỗ bí mật đối với Nguyễn Trung, hay nói cho đúng hơn, đối với bất kỳ họa sĩ nào của thời đại chúng ta. Trở lại với tranh trừu tượng, Nguyễn Trung có thêm một đóng góp mới của anh, anh đưa ánh sáng vào trong những mảng bố cục trừu tượng, và quả là anh đã tạo ra sức hấp dẫn mới với cách nhìn này. Trong dịp triển lãm năm 1994 ở Sàigòn, với Trịnh Cung, Đỗ Quang Em, Nguyễn Lâm, Nguyễn Phước, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Trung lại có dịp xác định thêm một lần nữa. "Trong thiên nhiên, ánh sáng là chiếc vương miện vĩ đại, làm tăng thêm vẻ sang trọng, uy nghi của núi rừng hoa cỏ. Trong hội họa, ánh sáng là sức sống của hình và nét, và tự nó cũng là hình nét. Tùy theo to nhỏ, dày mỏng, tùy theo cách sắp đặt, có thể làm cho nó chuyển động, nô đùa trên khung bố." (19)
Nguyên lý về ánh sáng là một điều không có gì mới, vậy mà vẫn rất mới với hội họa Nguyễn Trung, và rất hiển nhiên, đó là một đóng góp lớn của Nguyễn Trung cho nền mỹ thuật Việt Nam đương đại.

Chúng tôi vừa phác vẽ trở lại những nét chính yếu về sự hình thành và phát triển của nền nghệ thuật tạo hình Sàigon trước năm 1975. Hai mươi năm Hội Họa Miền Nam l954-l975, đó là một chuyển động liền mạch nhưng có nhiều tính bức phá, cho nên từ Nhóm Sáng Tạo, nền nghệ thuật ấy đã chuyển động mạnh với sự xuất hiện của các khuôn mặt trong nhóm Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam. Có thể nói rằng đó chính là những nghệ sĩ tiền phong đã góp phần xây dựng một tiếng nói tạo hình riêng biệt và mạnh mẽ, tạo nên một vẻ mặt hiện đại cho nền nghệ thuật tạo hình non trẻ của Việt Nam. Chúng ta có thể khẳng định rằng nền nghệ thuật ấy, tuy chỉ ngắn ngủi trong vòng 20 năm, cũng đã thành hình và trở thành một giai đoạn mỹ thuật khá đặc biệt, rất quan trọng trong lịch sử mỹ thuật chung của toàn bộ đất nước.
Quận Cam, California tháng 5-2003

Huỳnh Hữu Ủy

(Khởi Hành số 81, Tháng 7.2003))

CHÚ THÍCH:

(l) (2) Huỳnh Hữu Ủy, "Mấy ấn tượng và kỷ niệm với Nghiêu Đề" trong Mấy Nẻo đường của Nghệ Thuật và Chữ Nghĩa, Văn Nghệ. Calif., 1999, trang 67-68.
(3) Sỹ Trung, "Theo chân ban tổ chức cuộc Triển Lãm Mùa Xuân Kỷ Hợi", Văn Hữu, Sàigòn, số 1 tháng 6.1959, trang 31.
(4) Vựng tập Triển lãm Mùa Xuân Kỷ Hợi, Văn Hóa Vụ Bộ Thông Tin tổ chức, tại 105 đường Tự Do, Sài gòn (nay là Đồng Khởi), từ ngày 10.3 đến 25.3.1959.
(5) Đoàn Thêm, "Vài nhận xét nhân dịp Triển Lãm Hội Họa Mùa Xuân Kỷ Hợi", Văn Hữu, số 1, tháng 6-1959, trang 49.
(6) Sau khi đất nước bị chia cắt vào năm 1954, Sài gòn trở thành đầu não văn hóa của miền Nam tự do. Trong khi ấy, Hà Nội là thủ đô của miền Bắc, một trong những thành trì của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Hai chế độ chính trị, với hai chính phủ quản lý hai vùng riêng biệt. Tình hình ấy đã đưa đến hai nền nghệ thuật hoàn toàn khác biệt: nghệ thuật của miền Nam tràn đầy tự do và cá tính sáng tạo, thì ngược lại, nghệ thuật của miền Bắc chỉ là khí cụ của chế độ chính trị, là phương tiện tuyên truyền, tất cả đều bị áp đặt dưới một đường lối chỉ huy thống nhất của nhà nước. Mọi cánh cửa mở ra bên ngoài đều bị đóng lại. Mỹ thuật Hà Nội chỉ còn là một thứ nghệ thuật nghèo nàn, chật chội và đóng kín.

Để hiểu được bản chất tự do và mở rộng với thế giới của nền mỹ thuật Sàigòn sau năm 1954, chúng tôi trích dẫn lại ở đây lời phát biểu của Tổng Thống Diệm vào ngày 3 tháng 7 năm 1956, nhân buổi lễ đặt viên đá xây cất Thư Viện Quốc Gia: "Chúng ta thiết tha với nền Văn-hóa cố-hữu vì nền văn hóa ấy nhìn nhận con người là vạn vật chi linh. Nhưng ta sẽ thiển-cận và nông nổi nếu ta quên rằng giữa năm châu luôn luôn có sự giao hoán. Nước ta đứng vào một vị-trí tiền- phong tại Đông Nam Á, trên ngã tư của nhiều trục giao thông quốc tế, thì tất nhiên sẽ đón được các luống tư tưởng từ bốn phương đưa lại. Trong cuộc sống tinh thần, dân tộc ta cũng phải tiến hóa ăn nhịp với các dân-tộc tiên-tiến trên Thế-giới Tự-do.
Vậy nên, ngoài việc khai thác kho tàng văn-hóa của tiền-nhân, chúng ta còn phải tìm học những văn-hóa các nước ngoài để có thể hấp-thụ những cái hay, làm giàu thêm cho nền văn-hóa dân-tộc và đồng thời góp phần vào việc xây dựng nền văn-hóa chung của nhân-loại" (Dẫn lại trong lời giới thiệu sách Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại của Nguyễn Văn Phương, do Nha Mỹ-Thuật Học Vụ, Bộ Quốc Gia Giáo Dục VNCH ấn hành năm 1962, ở Sàigòn).
Lời phát biểu đó cũng phản ảnh được phần nào bản chất và sách lược về một nền văn hóa tự do. Nền văn hóa miền Nam, mà nghệ thuật tạo hình là một bộ phận trong đó, đã phát triển rất rực rỡ trên nền tảng đó. Và như vậy, thực là dễ hiểu tại sao chỉ trong vòng 20 năm ngắn ngủi, nền mỹ thuật Sàigòn đã có những thành tựu to lớn và rực rỡ vô song.

(7) Giữa Thập niên '80, Thái Tuấn di cư sang Pháp. Anh có điều kiện thuận lợi để làm việc trở lại với nhiều hứng khởi. Năm 1995-l996, Hội Văn Hóa Nghệ Thuật Việt- Mỹ (VAALA), Tạp Chí Thế Kỷ 21, và các thân hữu của Thái Tuấn đã kết hợp tiến hành Dự Án Thái Tuấn, rất công phu có hơn một năm trời, góp được một nét rất thanh nhã và sinh động vào đời sống văn hoá của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Ngoại trừ cuộc triển lãm giới thiệu mỹ thuật Việt Nam do viện Smitsonian tổ chức, đây là một hoạt động tốn nhiều công sức và tâm huyết, chuẩn bị công phu và kỹ lưỡng chưa từng có trong sinh hoạt văn hóa suốt hơn 25 năm qua. Dự án Thái Tuấn thành công rực rỡ với 2 cuộc triển lãm được tổ chức ở Washington D.C., và Quận Cam California, và một Tuyển tập Tranh và Tiểu luận của Thái Tuấn in khá đẹp do Hội VAALA xuất bản. Trong tập sách này, ngoài các tiểu luận của Thái Tuấn, còn có một số bài viết khác của Huỳnh Hữu ủy, Võ Phiến, Nguyễn Đồng, Lê Uyên Phương. Nhắc đến tập tiểu luận và tuyển tập tranh này, chúng ta cũng cần nhớ rằng Thái Tuấn là một nhà viết tiểu luận về hội họa tài hoa và rất sâu sắc. Trên Tạp chí Sáng Tạo, Thái Tuấn đã góp phần kích thích sự phát triển một nền nghệ thuật mới với những bài viết rất mới mẻ. Năm 1967, các bài viết ấy đã được nhà xuất bản Cảo Thơm tập hợp lại và in thành sách Câu Chuyện Hội Họa.

Dự án Thái Tuấn được tiến hành cẩn trọng và thành công rực rỡ; sau đó hai năm, một cuộc triển lãm khác của Thái Tuấn được bày tiếp cũng ở Hoa Thịnh Đốn, trong khuôn viên Tòa Đại Sứ Pháp, từ 5.3 đến 3.4.1998. Hầu hết tranh bày trong dịp triển lãm này đều đã được bày trong 2 cuộc triển lãm trước, chỉ thêm có vài tấm vẽ trong hai năm sau này. Nơi bìa Tập Catalogue nhỏ, bức Quả Dưa Đỏ được in lại khá đẹp. Về bức tranh này, Thái Tuấn giải thích: "Bức tranh ấy tôi vẽ xong, mới chợt nhận ra câu chuyện An Tiêm khắc chữ vào quả dưa đỏ thả trôi ra biển như một thông điệp gửi về đất liền, nên đã đặt tên là Quả Dưa Đỏ. Khi vẽ tôi bị quyến rũ bởi đường nét, hình khối của chiếc yếm và cái thắt lưng mà tôi thích nhất trong lối phục sức giản dị của người phụ nữ Việt ở thời kỳ qua. Vẻ đẹp ấy là những gì vẫn còn lại trong cái tầm thước thẩm mỹ rất Việt, mặc dù cái "mốt" đã qua từ lâu như mọi cái mốt". (Trích thư riêng của Thái Tuấn gửi cho H.H.U, ngày 24.4.1998).

Cũng nhân đây, chúng tôi trích in lại phát biểu của Thái Tuấn trong dịp triển lãm này, như là một vết tích đẹp đẽ đáng ghi nhớ của người nghệ sĩ lão thành vừa đúng 80 tuổi vào dịp triển lãm này (1918-1998). Phát biểu này cũng có thể được xem là một đúc kết của cuộc đời họa sĩ, với hơn nửa thế kỷ hiến mình cho mỹ thuật, đã góp công rất lớn vào sự hình thành và phát triển nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Trong vựng tập triển lãm, phát biểu này chỉ in bản chuyển dịch tiếng Anh. Chúng tôi trích in lại ở đây phác thảo đầu tiên của Thái Tuấn bằng Việt ngữ, viết khi vừa đến Washington, D.C., ngày 2 tháng 3.1998.

Có những lúc ngước lên bầu trời đầy trăng sao, hay có khi nhìn xem đóa hoa nở và cũng đôi lần nghe tiếng chim hót véo von. Tôi đã không tìm được lời giải đáp cho những câu hỏi: Mọi sự vật từ đâu tới? Tại sao tất cả đã gây cho tôi một niềm xúc động vô biên.
May thay, bàn tay tôi chợt nắm lấy cây cọ như người lữ khách cầm chiếc gậy dò dẫm trên quãng đường dài. Nhưng không để tìm kiếm một cái đích, bởi những cái ĐẸP nằm ngay trong mỗi bước đi vô tận. (Thái Tuấn)

(8) Những khuôn mặt trẻ được chú ý đặc biệt trong cuộc triển lãm này: Trịnh Cung với hai bức sơn dầu Trên vùng an nghỉ và Địa đàng ấu thơ (huy chương bạc), Đinh Cường với Ốc đảo và Những người hái hoa ban đêm, Cù Nguyễn với tác phẩm TrăngChim và Hoa (huy chương đồng), Âu Như Thuy với Những chó và những người(huy chương bạc), Nguyên Khai với Đường chim bay, Trầm Tích, Hồ Điệp, Orphée và Eurydice, Đỗ Mai Lan vớiChuông gọi, Tôn nữ Kim Phương với 4 tác phẩm: Chân Dung, Hy Vọng, Cô gái ngồi, Đoàn tụ, Hồ Thành Đức với hai bức collage Những vùng Thạch Động và Tóc Trăng, và Nguyễn Quỳnh với Theo hay Chống.
Những khuôn mặt trẻ trung, với sự biểu lộ màu sắc vươn lên mạnh mẽ, nồng nhiệt, quả đã không phụ lòng với sự trông đợi của đất nước. Chỉ vài năm sau, trong một thời gian rất ngắn, họ đã góp phần phát triển và đưa nền nghệ thuật mới của Việt Nam tiến đến những chân trời hiện đại vô cùng rực rỡ.
Trong cuộc triển lãm này, chúng ta cũng cần ghi nhận số hỗ trợ nồng nhiệt của Thái Tuấn, với tư cách chủ tịch hội đồng cuộc triển lãm, đã cổ súy, tán thưởng đặc biệt những tiếng nói tạo hình trẻ trung và táo bạo vừa kể đến bên trên. Đó là một nguồn cổ vũ mạnh mẽ để kích thích các đồng nghiệp trẻ hơn vững tin mà tiến bước.

(9) Nguyễn Quỳnh, "Nhìn Lại Hội Họa Việt Nam Hiện Đại (1930-l975): Một bài học để so sánh và Tìm hiểu", Hợp Lưu, Calif., số 10 tháng 4 & 5 năm 1993, trang 30.
(10) Nguyễn Quỳnh, Hợp Lưu, đã dẫn, trang 32.
(l1) Trịnh Cung là một họa sĩ lớn của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại. Từ những năm đầu thập niên 60 cho mãi đến nay, hầu hết tranh của anh đều là những dấu vết rất đặc biệt. Mỗi tác phẩm là ấn chứng của một thời kỳ Suy nghĩ và Sáng tạo. Tranh trừu tượng hiện nay của Trịnh Cung là một bảng hòa sắc rất thơ mộng đến từ phương Đông, bay bổng mà trầm mặc: đó là Sáng tác của một nghệ sĩ có tư duy sâu, gần với sự lập thuyết trong tạo hình.
(12) Đề tài của bài viết này nhằm vào hai mươi năm Hội Họa Miền Nam (1954-1975), tuy nhiên ở đôi nơi chúng tôi cũng mở rộng sự trình bày về những năm sau này.
- Xin xem thêm: Huỳnh Hữu Ủy, "Vẻ ẩn mật trong Hội Họa Đinh Cường", trong Mấy Nẻo Đường của Nghệ Thuật và Chữ Nghĩa, Văn Nghệ, California 1999; trang 81-88.
(13) Xin xem thêm: Huỳnh Hữu Ủy, "Đôi điều ghi nhận về họa sĩ Nguyễn Phước", trong Tuyển Tập Hai Mươi Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại 1975-1995, Đại Nam, Califomia 1995, trang 1433-1437.
(14) Trích nhận xét của Nguyễn Trung in trong brochure triển lãm của Hội Họa Sĩ Trẻ nhân cuộc trưng bày chung năm 1973 ở phòng tranh Dolce Vita (khách sạn Continental năm 1973 ở Sài gòn).
(15) Trích từ vựng tập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam: Triển lãm Hội Họa và Điêu Khắc, 1969, Goethe Inistitut bảo trợ, bày ở Pháp Văn Đồng Minh Hội, 24 Gia Long, Sàigòn.
(16) In trong vựng tập triển lãm 36 tác phẩm mới của Trịnh Cung, Đỗ Quang Em, Nguyễn Lâm, Nguyễn Phước, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Trung, Bảo Tàng Mỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh, Sàigòn 1994.
(17) Vựng tập 36 Tác phẩm mới..., như trên.
(18) Đinh Cường, Họa sĩ Nguyễn Trung với không gian màu xám nâu, Tuổi Trẻ Chủ Nhật, số 31 ngày 7.9.1986.
(19) In trong vựng tập triển lãm 36 Tác phẩm mới Trịnh Cung, Đổ Quang Em, Nguyễn Lâm, Nguyễn Phước, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Trung, Bảo Tàng Mỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh, Sàigòn 1994.

CAO ĐẲNG MỸ THUẬT SÀIGÒN KHÓA III (1956)
HỌA SĨ NGUYỄN VĂN TRUNG (1937)


LAO ĐỘNG VIỆT NAM (sơn mài) (1958-1959) Kích thước 8.40 x 2.40 m (07 phên)
Vietnamese workers (lacquer) 1958-1959 yrs. Creative
Travailleurs Vietnamiens (laque) Créate année 1958-1959
BỐ CỤC(sơn mài) 
Composition (lacquer) 
Composition (lacque)
ĐỖ HOÀNG HOANH

SÁNG TÁC TẬP THỂ CỦA GIÁO SƯ VÀ SINH VIÊN TRƯỜNG QUỐC GIA CAO ĐẲNG MỸ THUẬT GIA ĐỊNH 
Joint work of the master and student of the Giadinh National Fine Art College
Oeuvre commune des professeurs et des élèves de l' École Nationale Supérieur des Beaux - Arts de Giadinh
(Tư liệu NGHỆ THUẬT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI - NHA MỸ-THUẬT HỌC-VỤ BỘ QUỐC-GIA GIÁO DỤC VIỆT-NAM CỘNG-HÒA) Chỉ đạo và thực hiện Họa sĩ Nguyễn Văn Trung - Hiện Sưu tập tại Malaysia
Tranh dự Triển lãm ở Thụy sĩ 1962-1963, mang sang do các vị Họa sĩ : Lê Văn Đệ, Mai Lan Phương và Nguyễn Văn Phương
Xử lý ảnh do Nguyễn Quốc Tuấn - October 06-2015







CAO ĐẲNG MỸ THUẬT SÀIGÒN KHÓA VII (1960)

HỌA SĨ HỒ HỮU THỦ (1942)


 



















 















































Không có nhận xét nào: